Tín hiệu mới cho bệnh nhân ung thư da

Thứ năm, 02/06/2016 16:15 PM - 0 Trả lời

Nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Da liễu Trung ương do PGS. TS. Trần Hậu Khang đứng đầu vừa nghiên cứu, xây dựng thành công quy trình chẩn đoán và điều trị ung thư da ở Việt Nam. Đây là tín hiệu đáng mừng cho các bệnh nhân mắc bệnh ung thư da (UTD).

(NBCL) Nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Da liễu Trung ương do PGS. TS. Trần Hậu Khang đứng đầu vừa nghiên cứu, xây dựng thành công quy trình chẩn đoán và điều trị ung thư da ở Việt Nam. Đây là tín hiệu đáng mừng cho các bệnh nhân mắc bệnh ung thư da (UTD).

[caption id="attachment_100999" align="aligncenter" width="500"]PGS. TS Trần Hậu Khang PGS. TS Trần Hậu Khang[/caption]

Tỉ lệ bệnh nhân mắc ung thư da ngày càng cao

Theo PGS. TS. Trần Hậu Khang – Bệnh viện Da liễu Trung ương, UTD là một trong những ung thư thường gặp ở trên thế giới. UTD gồm nhiều loại khác nhau và được chia thành 2 nhóm chính: ung thư tế bào hắc tố và ung thư tế bào không hắc tố. 3 loại ung thư thường gặp nhất là ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào vảy và ung thư tế bào hắc tố. Số lượng bệnh nhân mắc UTD ngày càng tăng nhanh. Năm 2002, ước tính có 1,3 triệu người Mỹ mắc UTD, trong đó có 53.000 người mắc ung thư tế bào hắc tố và hơn 7.000 người chết vì loại ung thư này. Đến năm 2006 ước tính có khoảng trên 3,5 triệu bệnh nhân cao gấp gần 3 lần số bệnh nhân năm 2002. Ở Anh, tỉ lệ mắc UTD mới ước tính trong thời gian 10 năm (2001 – 2010) tăng 33%.

Có nhiều yếu tố gây UTD, trong đó quan trọng nhất là ánh nắng mặt trời. Bên cạnh ánh sáng mặt trời và HPV, nhiễm độc một số kim loại nặng như arsenic cũng là nguyên nhân của UTD, nhất là ung thư tế bào vảy. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tỉ lệ ung thư tế bào vảy cao ở những vùng nước sinh hoạt bị nhiễm arsenic. Ở những người có nồng độ arsenic cao trong móng có nguy cơ mắc ung thư tế bào vảy cao gấp gần 2 lần so với người bình thường. Ngoài ra, rất nhiều nghiên cứu đề cập đến tác dụng của thuốc lá, hắc ín, các chất diệt cỏ, thuốc trừ sâu hoại chất diệt nấm cũng là những nguyên nhân gây ung thư tế bào vảy.

Những năm gần đây, ở Việt Nam, số người mắc ung thư nói chung và ung thư da nói riêng tăng rất nhanh. Theo báo cáo của Tổ chức Phòng chống ung thư quốc tế, số mới mắc ung thư ở nước ta năm 1990 là 52.721 người và đến năm 2002 tăng lên 75.150 người. Ở Hà Nội giai đoạn 1992 – 1996, tỉ lệ mắc UTD là 2,9 – 4,5/100.000 dân. Ở Tp. Hồ Chí Minh, năm 1997 tỉ lệ chuẩn theo tuổi chung cho cả 2 giới là 3/100.000 dân, xếp thứ 8 trong 10 loại ung thư thường gặp. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp mắc UTD, đặc biệt là nông dân, những người làm nghề chài lưới, nhưng do hạn chế hiểu biết về bệnh nên nhiều bệnh nhân mắc bệnh UTD đã không đến khám hoặc đến quá muộn khi tổ chức ung thư đã di căn.

Trong khi đó, các cơ sở y tế có thể chẩn đoán và điều trị UTD ở nước ta không nhiều, chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Hầu hết các trường hợp bệnh nhân đến khám và điều trị ung thư da thường ở giai đoạn muộn.

[caption id="attachment_101000" align="aligncenter" width="500"]ung thư da đang là căn bệnh phổ biến ung thư da đang là căn bệnh phổ biến[/caption]

Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, số bệnh nhân UTD đến khám và điều trị ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê, số bệnh nhân UTD tới khám và điều trị năm 2009 tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2007.

Mặc dù đã có không ít nghiên cứu về UTD ở Việt Nam trong thời gian qua ở cả ba miền. Tuy nhiên, hầu hết là nghiên cứu hồi cứu về tình hình đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của các bệnh nhân được điều trị tại bệnh viện với cỡ mẫu rất hạn chế, chưa phản ánh được thực trạng tình hình UTD ở nước ta. Đến nay, chưa có một nghiên cứu nào về đặc điểm dịch tễ cũng như các yếu tố nguy cơ của UTD một cách hệ thống. Nhiều trường hợp UTD không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.

Điều trị UTD bằng các phương pháp cổ điển thường dễ tái phát. Kỹ thuật Mosh là một phương pháp điều trị hiện đại, đang được nghiên cứu triển khai ở một số nước tiên tiến. Kỹ thuật đã tạo ra được bước đột phá trong điều trị UTD, giúp phẫu thuật viên xác định ngay được việc loại bỏ hết tổ chức ung thư trong quá trình phẫu thuật, tiết kiệm được tổ chức da lành xung quanh khối u và giảm tối đa mức độ tái phát của bệnh.

Ở nước ta kỹ thuật này bước đầu đã được thực hiện tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và cho kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, cần tiến hành nghiên cứu đầy đủ để có kết luận chính xác về hiệu quả của phương pháp điều trị nói trên. Xuất phát từ thực tiễn đó, Bệnh viện Da liễu Trung ương đề xuất và được Bộ KH&CN phê duyệt thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ, phương pháp chẩn đoán, điều trị bệnh ung thư da” (mã số KC.10.09/11-15) từ tháng 2/2012 do PGS. TS. Trần Hậu Khang làm chủ nhiệm.

Nghiên cứu mang tính thực tiễn cao

Theo PGS. TS. Trần Hậu Khang, đề tài hướng đến mục tiêu xác định được đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ của bệnh UTD ở Việt Nam; đánh giá hiệu quả điều trị UTD tại Bệnh viện Da liễu Trung ương; xây dựng được quy trình chẩn đoán và điều trị UTD.

Theo kết quả nghiên cứu, giai đoạn 2008 – 2010, ước lượng tỉ lệ mắc UTD cao nhất là ở TP. Cần Thơ với cả nam lẫn nữ, sau đến TP. Hồ Chí Minh: tỉ lệ hiện mắc ở nam là 16,5/100.000 dân và nữ là 15,0/100.000 dân. Ở các tỉnh còn lại tỉ lệ hiện mắc UTD dao động khoảng từ 5,5 – 8,5/100.000 dân. Tỉ lệ mới mắc UTD cao nhất cũng ở TP. Cần Thơ và tiếp đến là TP. Hồ Chí Minh.

Đề tài đã đưa ra báo cáo đặc điểm dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ của UTD. Cụ thể, xác định được tỉ lệ hiện mắc và các yếu tố nguy cơ gây UTD ở Việt Nam. Sản phẩm đã được công bố ở các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Cùng với đó, đưa ra quy trình chẩn đoán UTD (đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn của tổ chức phòng chống ung thư quốc tế, có thể chẩn đoán sớm các loại UTD, độ chính xác cao trên 90% các trường hợp và đã được Hội đồng khoa học chấp nhận và thông qua); quy trình điều trị UTD (đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn và phù hợp với từng loại UTD); báo cáo đánh giá kết quả điều trị UTD (đảm bảo chất lượng điều trị với tỉ lệ tái phát dưới 5%, kéo dài thời gian sống sau điều trị); báo cáo đề xuất các biện pháp dự phòng UTD phù hợp và mang tính khả thi với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam; báo cáo tổng thể kết quả nghiên cứu đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu sản phẩm của đề tài.

Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở giúp các nhà hoạch định chính sách về UTD của Bộ Y tế và của ngành da liễu xác định, định hướng chiến lược điều trị và phòng tránh UTD ở Việt Nam.

Chẩn đoán sớm UTD tại các cơ sở y tế còn gặp nhiều khó khăn, điều trị UTD còn chưa nhất quán. Do vậy, nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, xây dựng qui trình chẩn đoán, điều trị và dự phòng là rất cần thiết đối với các cán bộ y tế.

Nghiên cứu các phương pháp điều trị hữu hiệu và các biện pháp phòng tránh UTD một cách có hiệu quả sẽ góp phần quan trọng làm giảm tỉ lệ mắc, giảm tỉ lệ tử vong và nâng cao chất lượng sống của người bệnh. Các báo cáo khoa học của đề tài là những tài liệu tham khảo tốt cho các cán bộ y tế chuyên khoa và đa khoa tại các cơ sở y tế và cho công tác giảng dạy, học tập trong ngành y tế.

Quy trình chẩn đoán, điều trị và phòng tránh UTD do các nhà chuyên môn nghiên cứu một cách khoa học sẽ được ứng dụng trong thực tế để áp dụng tại các cơ sở y tế trên toàn quốc. Từ kết quả của đề tài, nhóm nghiên cứu có thể liên kết với ngành y tế của các địa phương trong việc điều trị và phòng tránh UTD và với các labo nghiên cứu về đột biến gen P53 và BRAF trong chẩn đoán ung thư nói chung, nhất là UTD.

Kết quả nghiên cứu về dịch tễ học, các yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, qui trình chẩn đoán điều trị và dự phòng UTD sẽ được chuyển giao cho các cơ quan quản lý các cơ sở điều trị, các cơ quan nghiên cứu và đào tại về các bệnh ung thư. Tổ chức tập huấn về UTD theo mô hình truyền thông cho các cán bộ y tế và người dân trên phạm vi toàn quốc.

Theo chủ nhiệm đề tài, hiện các địa chỉ dự kiến ứng dụng kết quả của đề tài gồm: Bộ Y tế, Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe của Bộ Y tế và các Sở Y tế, các trường đại học y, Sở y tế và các Trung tâm da liễu hay Trung tâm quản lý các bệnh xã hội các tỉnh, các bệnh viện, trung tâm ung bướu trên cả nước.

Hoàng Khuê

Tin khác

Ca sinh hy hữu: Sản phụ đẻ trên biển

Ca sinh hy hữu: Sản phụ đẻ trên biển

(CLO) Bé trai kháu khỉnh được chào đời trong trường hợp hết sức đặc biệt và rất may mắn khi đang trên thuyền di chuyển từ đảo Quan Lạn về đất liền.

Sức khỏe
Uống thuốc nam không rõ nguồn gốc hai nam bệnh nhân suy gan phải nhập viện

Uống thuốc nam không rõ nguồn gốc hai nam bệnh nhân suy gan phải nhập viện

(CLO) Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa tiếp nhận hai bệnh nhân nam bị suy gan do liên quan đến uống thuốc nam không rõ nguồn gốc.

Sức khỏe
TP HCM: Phát hiện một cơ sở thẩm mỹ đổi tên để 'né' xử phạt vi phạm hành chính

TP HCM: Phát hiện một cơ sở thẩm mỹ đổi tên để 'né' xử phạt vi phạm hành chính

(CLO) Sau khi kiểm tra, Sở Y tế TP HCM phát hiện cơ sở treo biển phòng khám chuyên khoa Da liễu An Nhi đang hoạt động trái phép. Đáng nói phòng khám này có chung chủ với các đơn vị kinh doanh đã bị xử phạt trước đó tại cùng địa chỉ.

Sức khỏe
TP HCM: Phát hiện 'viện tế bào gốc' núp bóng phòng khám đa khoa hoạt động trái phép

TP HCM: Phát hiện 'viện tế bào gốc' núp bóng phòng khám đa khoa hoạt động trái phép

(CLO) Sở Y tế TP HCM vừa phát hiện và xử lý cơ sở mang tên “Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tế bào gốc Việt Nam” hoạt động không phép, núp bóng một phòng khám đa khoa.

Sức khỏe
Y tế phường cứu thành công một trẻ đuối nước

Y tế phường cứu thành công một trẻ đuối nước

(CLO) Nạn nhân khi đến trạm y tế phường đã trong tình trạng bất động, lay gọi không biết, toàn thân lạnh, da tái nhợt, mạch cảnh không bắt được.

Sức khỏe