Truyền thuyết chiếc gùi
Chẳng ai còn biết rằng, chiếc gùi có từ bao giờ và ai sáng chế ra chúng, chỉ nghe kể lại rằng, trong cộng đồng các dân tộc vùng Tây Bắc xưa có đôi trai gái yêu nhau. Chàng trai mồ côi từ nhỏ, bé thì đi ăn nhờ, lớn lên chút nữa thì đi ở đợ. Đến tuổi cập kê, chàng đem lòng yêu con gái nhà Phình giàu có trong làng. Cảm mến tính chịu khó hay lam hay làm, con gái nhà Phình đem lòng đáp trả.
Lù Cở hay còn gọi là chiếc gùi có mặt trong suốt cuộc đời của đồng bào các dân tộc
Vì chàng trai đã ngèo lại mồ côi, nên họ Phình không đồng ý, quyết tâm ngăn cản. Để ngăn cản con gái không đến với chàng trai, họ Phình đã bàn với các gia đình khác không thuê chàng trai làm thuê nữa. Độc ác hơn, Phình còn đốt nhà khiến chàng trai phải bỏ bản đi nơi khác.
Thương nhớ người yêu, ngày qua ngày, cô gái cứ ra khóm tre hai người đã tự trồng để hẹn lời chung thủy khóc lóc, tiếc thương. Càng ngày, cây tre ấy càng sinh sôi nẩy nở phủ kín cả cánh rừng. Nỗi nhớ người yêu càng quay quắt khiến cô nẩy ra đi định đi tìm chàng. Cô đốn tre, dùng dao nạo vỏ, lấy cật tre chẻ ra thành từng sợi nhỏ rồi đan tạo thành một khối hình trụ. Miệng loe ra tựa bông hoa gạo, đáy nhỏ hơn. Các nan đan vắt chéo nhau tạo hình hoa văn tượng trưng cho tình yêu bất diệt, lòng chung thủy, đồng thời là niềm tin sắc son vào tình yêu, hạnh phúc.
Lù cở luôn là bạn đồng hành của phụ nữ vùng cao
Sau khi đan xong chiếc gùi, cô gái đựng vào đó những vật dụng cá nhân và khoác lên lưng để đi tìm chàng. Cô đi hết ngọn núi này, cánh rừng khác cuối cùng cũng tìm được chàng trai. Chiếc gùi ghi dấu từ đấy.
Nét riêng của người vùng cao
Từ xa xưa, người dân tộc thường sống ở lưng chừng núi, do vậy mỗi khi xuống chợ hay lên nương là họ phải vượt qua nhiều đèo, dốc núi hiểm trở. Đi lại khó khăn là vậy, việc vận chuyển hàng hóa càng khó khăn hơn nên người dân tộc đã sáng tạo ra chiếc lù cở. Lù cở có miệng hình tròn, dáng vuông với nhiều kích cỡ. Nguyên liệu đan lù cở là tre, nứa và dây rừng. Quai đeo được làm từ thân cây móc mọc trong rừng, tết chắc chắn và đính vào thân lù cở để khi đeo dù có nặng đến mấy cũng không thấy đau vai. Có nhiều loại to, loại nhỏ khác nhau để đi nương, đi chợ cho người già, trẻ con đều mang được. Lù cở quen đến nỗi như một thứ đồ “trang sức” của phụ nữ vùng cao mỗi khi đi chơi hội mùa xuân.
Lù cở gắn bó cả đời với người phụ nữ
Quan niệm của người dân sống ở các tỉnh miền núi thì phụ nữ người Mông khi đã có chồng, con, mang lù cở thể hiện sự đảm đang, chăm chỉ vun vén, gồng gánh kinh tế gia đình. Người Mông vẫn ví rằng, cưới được vợ là như trong nhà vừa tậu con trâu tốt, bởi người phụ nữ sẽ là lao động chính trong nhà và gánh nặng mưu sinh gia đình nằm ở trên lưng. Hàng ngày họ cứ lầm lũi cùng lù cở trên lưng mang những chuyến hàng hoặc trẻ nhỏ lên nương, xuống chợ rồi về bản. Các thiếu nữ chưa lập gia đình, việc mang lù cở như lời khẳng định đầy hứa hẹn với đám trai bản rằng mình là người đảm đang, khéo léo, biết vun vén cho tương lai.
Nếu có dịp lên các bản vùng cao, bạn dễ dàng bắt gặp hình ảnh người phụ nữ, trẻ nhỏ nơi đây gùi củi, gùi rau, cũng có khi là con gà thò mỏ ra, hay can rượu ngô vừa nấu qua những ngọn núi cao, vách đá cheo leo, hay trên những nẻo đường lên nương xuống chợ. Thú vị hơn là những em bé được đặt trong lù cở theo mẹ xuống chợ, lên nương. Khi phiên chợ tan thì chiếc lù cở lại nặng trĩu chuyên chở những vật dụng sinh hoạt hàng ngày theo chân người về bản.
Ngày nay cho dù đường giao thông và phương tiện đi lại đã thuận lợi nhưng với người phụ nữ vùng cao thì lù cở vẫn trĩu nặng trên vai, đôi chân cùng họ mỗi ngày trải qua những vách núi cheo leo, hiểm trở để lên nương, xuống chợ. Lù cở không chỉ là vật dụng thiết yếu bởi từ bao đời nay nó đã gắn liền với cuộc sống của đồng bào mà nó còn là nét văn hóa vùng cao.
Giang Vương