Chính bởi vậy, việc giải quyết các bài toán này bằng các công cụ hành chính, chính sách cần cân bằng giữa lợi ích trong ngắn hạn và dài hạn sẽ giúp các doanh nghiệp Việt đủ tính cạnh tranh khi nền kinh tế ngày càng bình đẳng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Kinh tế số ở Việt Nam: Xu hướng tất yếu!
Nền kinh tế số sẽ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển ở mỗi quốc gia, khi các lĩnh vực kinh tế dựa vào hoặc sử dụng mạng và nền tảng công nghệ số thông minh, giúp gia tăng GDP với tỷ lệ và mức độ vượt trội. Trong xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0, thương mại điện tử, quảng cáo, tiếp thị trực tuyến trên các trang mạng xã hội, taxi Uber hay Grab… chính là những dấu ấn của kinh tế số hóa. Một nghiên cứu của Đại học Tufts (Mỹ) cho thấy, Việt Nam hiện đang xếp hạng 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số hóa nhanh trên thế giới, đồng thời xếp hạng 22 về tốc độ phát triển số hóa. Điều đó đã chứng tỏ kinh tế số ở Việt Nam đang có triển vọng phát triển.
Nhìn nhận về vấn đề này, nhiều chuyên gia cho rằng, bên cạnh những thách thức về mặt điều phối kinh tế, an ninh an toàn mạng, nhận thức của các chủ thể kinh tế về chuyển đổi số hóa, Việt Nam hiện nay đang sở hữu lợi thế về nguồn lực con người và sự ủng hộ của Chính phủ. Do đó, nếu tạo ra làn sóng, động lực quốc gia về phát triển kinh tế số sẽ có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế số hóa mạnh mẽ hơn nữa tại Việt Nam. Theo ông Trương Gia Bình, Trưởng ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân - Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, quá trình hình thành nền kinh tế số cũng như phát triển các thành phố thông minh ở Việt Nam là quá trình khuyến khích đổi mới sáng tạo để thúc đẩy sự chuyển dịch của nền kinh tế. Chính vì vậy, để phát triển kinh tế số, ông Bình cho rằng cần xây dựng chính sách thương mại hóa rõ ràng, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp chủ động được phương án sản xuất và kinh doanh ngay từ những ngày đầu thành lập, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc xin các giấy phép, cấp các giấy phép mới.
Có một thực tế là trong thời gian qua, các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ tuy đã có chủ trương để tạo điều kiện phát triển nhưng khung pháp lý lại chưa hình thành, khiến vấn đề thương mại hóa các sản phẩm khởi nghiệp sáng tạo từ ứng dụng công nghệ đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân có thể thấy được là do các loại hình sản phẩm, dịch vụ này đều rất mới, lần đầu xuất hiện trên thị trường và phải chờ đợi rất lâu để được cấp phép nên làm lỡ cơ hội kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Bên cạnh đó, môi trường chính sách và khung pháp lý hiện hành còn nhiều điểm gây khó khăn cho doanh nghiệp mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh. Chính sách thuế với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cung cấp dịch vụ số tại Việt Nam đang có bất cập.
Theo TS. Nguyễn Xuân Hải, Trưởng nhóm Chính sách Kinh tế, Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam, về cơ bản Việt Nam đã sẵn sàng với kinh tế số, nhất là trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế số sẽ là một xu thế không đảo chiều được. Mặc dù vậy, TS. Nguyễn Xuân Hải cũng cho rằng, việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam đang còn vướng mắc nhiều ở khung pháp lý khi trên thực tế, các hãng taxi công khai phản đối Uber và Grab, sự lúng túng của các cơ quan chức năng trước “tiền ảo”, hay các start-up Việt sang Singapore khởi nghiệp phản ánh rõ sự cần thiết trong việc cải cách khung luật ở Việt Nam. Các chuyên gia cũng cho rằng, để tận dụng được những lợi thế của Việt Nam trong nền kinh tế số, điều cấp bách đối với các nhà quản lý là thay đổi tư duy, tạo hành lang pháp lý tốt để công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh tế cải tiến mô hình phát triển, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới.
Cùng với đó, trong thời gian ngắn, Việt Nam cần có chiến lược phát triển công nghệ số, tập trung vào việc nghiên cứu để có thể áp dụng công nghệ mới vào phát triển kinh tế số hóa để bắt kịp với xu hướng chung toàn cầu.
Kịch bản nào cho Việt Nam?
Theo TS. Nguyễn Xuân Hải, Trưởng nhóm Chính sách Kinh tế, Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam (EPG-AVSE Global), Việt Nam có hai lựa chọn về kịch bản pháp lý. Hoặc chọn theo cách làm khép cánh cửa với bên ngoài và đặt kỳ vọng với nội lực quốc gia hoặc phá bỏ tối đa rào cản pháp lý để các công ty công nghệ được tự do phát triển, từ đó tìm được vị thế của riêng mình trong chuỗi giá trị số hoá.
Ở kịch bản đầu tiên, ví dụ có thể nhìn thấy rõ là Trung Quốc. Quốc gia này gần như ngăn cấm triệt để sự có mặt của các công ty công nghệ hàng đầu thế giới như Google, Facebook… và các sản phẩm công nghệ mới như Bitcoin. Thay vào đó, họ tạo cơ sở cho sự phát triển của các công ty nội địa như Baidu, Alibaba, Huawei hay Xiaomi. Đến nay, các công ty Trung Quốc không những dẫn đầu “cuộc cách mạng lần thứ tư” ở Trung Quốc mà còn có thể xâm nhập và cạnh tranh ở các thị trường quốc tế.
Còn ở kịch bản thứ hai, có thể nhìn vào sự phát triển của các quốc gia và vùng lãnh thổ như Úc, New Zealand, Singapore hay Hong Kong. Khi các công ty và công nghệ quốc tế tự do tham gia vào thị trường, đó sẽ chính là đòn bẩy, là đầu kéo cho nền kinh tế số hoá nội địa đi lên và nhanh chóng đứng ngang tầm với các quốc gia phát triển khác.
Tuy nhiên, mỗi kịch bản đều đem theo những rủi ro riêng, theo TS. Hải. Trong khi kịch bản một có thể cho ra đời những công ty và công nghệ của riêng Việt Nam nhưng cũng có thể dẫn tới sự tụt hậu nghiêm trọng cho nền kinh tế thì kịch bản hai có thể dẫn tới những đột biến trong kinh tế và xã hội chưa lường được trước.
Do đó, kết nối hay không kết nối hay nếu kết nối thì lựa chọn như thế nào sẽ là những bài toán mà Chính phủ phải cân nhắc kỹ lưỡng trong thời gian tới. Còn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kéo theo nền kinh tế số là một xu thế sẽ không đảo chiều được.
Bên cạnh đó, TS. Hải cũng lưu ý, trong khi câu chuyện cải cách hành lang pháp lý còn bỏ ngỏ, điều quan trọng bây giờ là những chính sách và đầu tư cụ thể trong lĩnh vực giáo dục công nghệ, kiến tạo trong thời gian sớm nhất một xã hội với lực lượng lao động chất lượng cao, vừa tận dụng được tối đa sự phát triển của công nghệ thông tin, vừa bảo đảm hoà nhập xã hội. Đó là điều Việt Nam phải làm ngay, bởi thế giới không bao giờ dừng lại để chờ đợi.❏
Khánh An