Khu vực nước bị ô nhiễm hoặc đã từng xảy ra sự cố sụt, lún đất, biến dạng địa hình sẽ không được phép khai thác nước ngầm. Ảnh minh họa
Theo Nghị định, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất (vùng hạn chế) được phân loại thành 4 vùng hạn chế và vùng hạn chế hỗn hợp.
Vùng hạn chế 1 được thực hiện đối với khu vực đã từng xảy ra sự cố sụt, lún đất, biến dạng địa hình; khu vực có biên mặn, có hàm lượng tổng chất rắn hòa tan (TDS) từ 1.500 mg/l trở lên; khu vực có bãi chôn lấp chất thải rắn tập trung theo quy định của pháp luật về quy hoạch, xây dựng và bảo vệ môi trường; khu vực có giếng khai thác nước dưới đất bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và sinh vật mà chưa có giải pháp công nghệ để xử lý bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt; khu vực có nghĩa trang tập trung hoặc các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất khác do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Biện pháp hạn chế khai thác đối với 5 khu vực trên là dừng toàn bộ mọi hoạt động khai thác nước dưới đất hiện có và thực hiện xử lý, trám lấp giếng theo quy định.
Vùng hạn chế 2 được thực hiện đối với các khu vực, tầng chứa nước lỗ hổng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các tầng chứa nước trong đá bazan ở các địa phương thuộc khu vực Tây Nguyên. Đối với các tầng chứa nước lỗ hổng ở các địa phương không quy định tại vùng 1 thì UBND cấp tỉnh căn cứ quy mô, mức độ khai thác nước dưới đất, mức độ hạ thấp mực nước dưới đất và yêu cầu về bảo vệ nguồn nước dưới đất trên địa bàn để quyết định.
Vùng hạn chế 3 là những khu vực đã được đấu nối với hệ thống cấp nước tập trung, bảo đảm nhu cầu sử dụng nước cả về thời gian, lưu lượng và chất lượng nước phù hợp với mục đích sử dụng nước; chưa được đấu nối nhưng có điểm đấu nối liền kề của hệ thống cấp nước tập trung và sẵn sàng để cung cấp nước sạch, bảo đảm nhu cầu sử dụng nước cả về thời gian, lưu lượng và chất lượng nước phù hợp với mục đích sử dụng nước.
Các biện pháp hạn chế khai thác trong Vùng hạn chế 2, 3 là không cấp phép thăm dò, khai thác để xây dựng thêm công trình khai thác nước dưới đất mới.
Vùng hạn chế 4: Có chức năng cấp nước sinh hoạt hoặc được quy hoạch để cấp nước sinh hoạt; có chế độ dòng chảy ổn định, dòng chảy tối thiểu từ 10 m3/s trở lên đối với sông, suối, kênh, rạch hoặc tổng dung tích từ 10 triệu m3 trở lên đối với hồ chứa; có chất lượng nước đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt cột A1 trở lên.
Để hạn chế khai thác trong Vùng hạn chế 4, Nhà nước không cấp phép thăm dò, khai thác để xây dựng thêm công trình khai thác nước dưới đất mới có quy mô khai thác từ 10.000 m3/ngày trở lên.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả khoanh định các vùng, khu vực hạn chế theo quy định tại Vùng hạn chế 1, 2, 3, 4, trường hợp có các khu vực hạn chế bị chồng lấn nhau, thì phần diện tích chồng lấn được khoanh định vào Vùng hạn chế hỗn hợp.
Việc áp dụng các biện pháp hạn chế đối với Vùng hạn chế hỗn hợp được quyết định trên cơ sở các biện pháp hạn chế khai thác tương ứng với từng vùng quy định tại Vùng hạn chế 1, 2, 3, 4 theo thứ tự quy định.
PV