Thực tế, thời gian qua có nhiều nhà báo tham gia mạng xã hội (MXH), sử dụng MXH như một kênh thông tin hiệu quả và có nhiều người trở thành “hot Facebooker” với những bài viết được hàng nghìn lượt “thích”, “chia sẻ”, tạo ra sự ảnh hưởng lớn đến dư luận, xã hội. Nhưng không phải bài viết nào của nhà báo được xuất bản trên MXH cũng có tính báo chí cao, không ít bài viết đã đưa những thông tin chưa qua kiểm chứng, mang lại nhiều hệ lụy. Chính vì vậy, việc đưa ra “Bản quy tắc sử dụng mạng xã hội của nhà báo, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam” là hết sức cần thiết. Với bối cảnh này, điều 5 “Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”, trong 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, cần được cụ thể hóa và diễn giải rõ ràng, tránh mơ hồ chung chung, nhất là khi luật An ninh mạng sắp có hiệu lực. Thế nào là “chuẩn mực”? Thế nào là “trách nhiệm”? Hai vấn đề này liên hệ với nhau như thế nào? Đôi khi ranh giới giữa trách nhiệm và thiếu trách nhiệm ở trên mạng xã hội rất mong manh, và để tránh lằn ranh mong manh đó, cần có những quy định cụ thể.
Khi một nhà báo tham gia mạng xã hội, viết bài trên mạng xã hội, thông tin mà họ đưa ra cho dù với tư cách công dân thì dường như vẫn được nhìn nhận dưới góc độ nhà báo, thậm chí của một tòa soạn, độ lan tỏa, tính
“sát thương” sẽ cao hơn. Chính vì vậy, thông tin đó cần đáng tin cậy, chính xác, được kiểm chứng. Nhưng tin cậy, chính xác, được kiểm chứng cũng chưa đủ, mà thông tin đó phải được đưa một cách có trách nhiệm. Nhà báo đăng tin trên mạng xã hội, họ chỉ cần thông qua bộ lọc của chính họ, không trải qua quy trình duyệt tin ở các tòa soạn. Cho nên, tính chịu trách nhiệm về thông tin phải cao, nhà báo phải đủ nhạy cảm để đo lường, cân nhắc sự tác động của thông tin đối với độc giả và cộng đồng, chứ không chỉ đơn thuần đưa tin để câu like, để thỏa mãn cái tôi. Mới đây nhất, vụ hơn 40 người ở Phú Thọ bị nhiễm HIV, trong khi sự việc còn chưa rõ ràng, một số nhà báo đã vội vàng đưa tin lên Facebook của mình, cơ quan y tế chưa đưa ra kết luận, đưa ra nguyên nhân một cách chủ quan, khiến dư luận hoang mang, mất niềm tin vào những người làm y tế tuyến cơ sở. Nếu người làm báo tham gia mạng xã hội một cách chuẩn mực và có trách nhiệm thì điều này đã không xảy ra.
Hơn lúc nào hết, tính chuẩn mực và trách nhiệm của nhà báo khi tham gia mạng xã hội cần được đề cao trong một bộ quy tắc ứng xử. Bộ quy tắc đó, cần đảm bảo tính tự do biểu đạt của người làm báo, không phải để “trói tay” người làm báo, nhưng cũng giúp người làm báo thể hiện được trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của mình thông qua mạng xã hội, tránh được những hệ lụy đáng tiếc.
Huy Hoàng