(NB&CL) Tháng 8/1945, trong các đội quân Việt Minh chống trả quân đội Nhật, có sự xuất hiện của những người lính Mỹ. Trong cuộc Cách mạng tháng 8, Việt Minh có những vị khách ngoại quốc luôn đi cùng từ chiến khu về tới Ba Đình. Trong đó, ấn tượng hơn cả là Thiếu tá Archimedes L.A Patti. Ông là người Mỹ hiếm hoi có cơ hội được song hành cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều diễn biến lịch sử của cách mạng Tháng Tám và Lễ độc lập 2/9/1945.
Từ tình bạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 13/4/1945, Archimede Patti, khi đó còn mang hàm đại úy- Đội trưởng đội OSS (The Office of Strategist Services, tiền thân của CIA, Cục Tình báo Trung ương Mỹ) được phái đến Côn Minh (Trung Quốc) với nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo tại đây, tìm cách giải cứu và bảo vệ những quân nhân Mỹ trong cuộc chiến với quân Nhật cũng như tìm hiểu những hoạt động bí mật mà phát xít Nhật đang thực hiện ở Đông Dương. Theo A.Patti, lần đầu tiên cái tên Hồ Chí Minh được nhắc đến trong một bức điện ngày 31/12/1942 của Đại sứ Mỹ (ở Trùng Khánh) thông báo việc bắt và giam Hồ Chí Minh ở Liễu Châu, Quảng Tây.
Từ công việc, giữa người cách mạng Hồ Chí Minh và viên thiếu tá người Mỹ đã dần dần thiết lập một mối quan hệ bạn bè đặc biệt. Thiếu tá Patti đã có dịp gặp mặt và trò chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ngôi làng nhỏ Chin Chou Chieh ở Tĩnh Tây, Quảng Tây (Trung Quốc) vào ngày 27/4/1945.
[caption id="attachment_117140" align="aligncenter" width="640"]
Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng đội OSS.[/caption]
Trong cuộc gặp đó, hai bên đã thảo luận và bàn về việc phối hợp hoạt động chống Nhật giữa Mặt trận Việt Minh và cơ quan OSS. Chính cuộc gặp này đã khiến vị thiếu tá có cảm nhận và ấn tượng sâu sắc về Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Ông Patti vô cùng cảm phục trước trí tuệ uyên bác, phong cách ngoại giao giản dị mà đầy sức thuyết phục của Bác Hồ. Trong cuốn hồi ký “Why Viet Nam?”, Thiếu tá Patti viết: “Mặc dù tôi đã tỏ ra khách quan và vô cùng thận trọng để bản thân không dính vào những khía cạnh chính trị liên quan đến vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành và tài hùng biện đầy sức thuyết phục của ông Hồ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi... Đó là một lãnh đạo vô cùng thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, Người thấu tình đạt lý và vô cùng tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin tưởng ông như người bạn đồng minh đứng cùng chiến tuyến chống lại phát xít Nhật…”.
Không chỉ làm nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, trợ giúp và phối hợp hoạt động với quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Quân đội Tưởng Giới Thạch) tổ chức giải giáp quân đội phát xít Nhật bại trận và giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh, Thiếu tá Patti còn nhận lời chuyển giúp một số thư, điện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Mỹ, đứng ra làm trung gian cho các cuộc tiếp xúc Việt - Pháp đầu tiên vào tháng 9/1945.
Khách mời của “bữa tiệc ngoại giao đầu tiên”
Ngày 19/8/1945, Hà Nội giành được chính quyền thì ngày 22/8/1945 phái bộ Mỹ đã có mặt ở Hà Nội, trên chiếc máy bay quân sự của đồng minh. Ba ngày sau, ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh về tới Hà Nội. Nghe tin có phái đoàn Mỹ do một viên tướng dẫn đầu, trong đoàn lại có cả L. A. Patti, Bác Hồ vui lắm. Bác nói với mọi người xung quanh: “Đây là khách quý đặc biệt, hy vọng sẽ là một điều lành”. Ngập trong muôn vàn công việc, nhưng chỉ một ngày sau, trưa ngày 26/8/1945, Người đã cho tổ chức trọng thị lễ đón phái bộ Mỹ của Archimede Patti ở vườn hoa nhỏ trước khách sạn Metropole. Sau buổi lễ, A.Patti được người bạn Hồ Chí Minh mời tới ngôi nhà “Người đã viết bản Tuyên ngôn độc lập” số 48 phố Hàng Ngang dự bữa cơm thân mật. Đây cũng có thể coi là “bữa tiệc ngoại giao” đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam mới.
Gặp lại người bạn lớn sau 4 tháng, Thiếu tá Archimede Patti đã thực sự ngạc nhiên trước “thân hình xương xẩu trái ngược với cái trán khá rộng với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt” của Hồ Chí Minh. Bữa tiệc diễn ra ở một căn phòng trên tầng hai với rượu Vermouth khai vị. Bà Hoàng Thị Minh Hồ- chủ ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang người lo toan việc bếp núc cho bữa tiệc- nhớ lại rằng bà đã đặt món ăn ở các hiệu lớn trên phố Hàng Buồm, Hàng Bông. Theo trí nhớ của A.Patti, cùng tiếp khách với Chủ tịch nước Việt Nam mới còn có Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và có thể cả Nguyễn Khang. A.Patti và Hồ Chí Minh đã có một cuộc trò chuyện thân mật như những người bạn cũ.
Sau đó, chiều 1/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mời A.Patti và Grelecki dự bữa cơm thân mật trước ngày lễ Độc lập của Việt Nam tại Bắc Bộ phủ. Cùng dự còn có Võ Nguyên Giáp và Hoàng Minh Giám. Qua những người bạn Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ sự hoan nghênh và coi trọng mọi sự ủng hộ vật chất và tinh thần mà phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam đã nhận được từ Mỹ và Đồng minh. Người cũng đánh giá cao và cảm ơn sự giúp đỡ của OSS. Người nhắc đến các ông Chennault, Helliwell, Glass, Thomas, Holland và mong tinh thần “hợp tác hữu ái” sẽ tiếp tục phát triển.
Vinh hạnh lắng nghe dự thảo bản Tuyên ngôn độc lập
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở Hà Nội (từ 22/8- 30/9/1945), ông Patti còn nhiều lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chiều 30/8/1945, Bác Hồ đã mời người bạn cũ L.A Patti đến căn phòng trên gác hai nhà 48 Hàng Ngang, đọc cho nghe dự thảo Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Bác muốn chính người Mỹ được nghe bản tuyên ngôn trước khi nó chính thức được truyền đi trên toàn thế giới.
A.Patti đã giật mình khi nghe câu mở đầu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lúc đó, Patti tưởng như mình nghe nhầm vì giống tuyên ngôn của Mỹ. Sau hỏi lại thì được Bác khẳng định: “Đúng thế! Mục đích cao cả của cách mạng VN, của cách mạng Mỹ là vì hạnh phúc của con người. Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người”. Ngay tối hôm đó, Patti điện về Mỹ: “Ngày 2/9/1945 sắp tới, VN sẽ tổ chức lễ tuyên bố độc lập. Câu mở đầu của bản tuyên ngôn do Hồ Chí Minh đọc sẽ là câu mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ”.
Hòa nhịp trong không khí hân hoan của ngày Lễ độc lập
Tuy nhiên, vinh hạnh lớn nhất của Thiếu tá Archimedes L.A Patti là việc có cơ hội lịch sử: hòa không khí sôi sục, hân hoan của người dân Việt Nam trong ngày lễ độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Trong cuốn hồi ký mang tên “Why Vietnam?” (Tại sao Việt Nam?), Thiếu tá Archimedes L.A Patti đã miêu tả tỉ mỉ, sống động về thời khắc trọng đại đó: “Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như những bầy ong, từng đoàn lớn nhỏ, lần lượt đổ về khu vực xung quanh Quảng trường Ba Đình để tham dự sự kiện có tính lịch sử trên. Tôi đã quyết định từ chối lời mời của ông Hồ đến khu vực Lễ đài dành cho quan khách. Tôi muốn chứng kiến buổi lễ như một người quan sát bình thường, được hòa mình trong không khí sôi sục, phấn khởi của quần chúng để ghi lại những cảm nhận chân thực, sống động nhất…
…Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm chú theo dõi ai sẽ là người đầu tiên xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên tiếng hô: “Bồng súng chào!”. Quần chúng bỗng im lặng. Trên lễ đài, mọi người đều bận đồ trắng, thắt cavát và để đầu trần, trừ một người có dáng hình nhỏ nhắn, mặc áo kaki màu sẫm... Đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh… Sau đó, tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu ông Hồ “là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc”. Quần chúng được sự hướng dẫn của các đảng viên, cất tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ đứng yên mỉm cười và phía dưới là sự hoan hô của người. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn - nay trở thành bản Tuyên ngôn nổi tiếng... Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người dân: “Đồng bào có nghe rõ tôi nói không?”. Quần chúng hô vang đáp lại: “Rõ”. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy! Từ lúc đó, quần chúng lắng nghe và theo dõi chăm chú từng lời nói, cử chỉ của ông Hồ. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đã nói gì. Lê Xuân - nguyên là người liên lạc của chúng tôi phải cố gắng lắm để dịch những lời của ông Hồ cho chúng tôi nhưng cũng rất khó khăn. Tuy nhiên, chỉ cần nghe giọng nói của ông Hồ bình tĩnh, rõ ràng, ấm cúng và thân mật cũng như nghe thấy câu trả lời mạnh mẽ của quần chúng thì chúng tôi cũng cảm nhận được phần nào tài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông Hồ”...
Anh Thư