(NB&CL) Việc phát triển nhiệt điện than là nhu cầu tất yếu nhưng vấn đề đảm bảo môi trường, trong đó có xử lý xỉ than, lại đang là vấn đề cấp thiết.
Theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, công suất nhiệt điện than sẽ được nâng từ 30,4% lên 49,3% vào năm 2020, tăng lên 55% vào năm 2025 và khoảng 53,2% vào năm 2030. Báo cáo của Hội Khoa học Kỹ thuật nhiệt Việt Nam cho thấy, sau khi dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, việc thay thế bằng nhiệt điện than cũng đã được tính đến với phương án cao.
Không thể thiếu nhiệt điện than thời điểm này Tại Hội thảo về
“Phát triển nhiệt điện than và các giải pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam” tổ chức ngày 29/8 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, việc dừng điện hạt nhân Ninh Thuận cũng đã nói rõ việc sử dụng các nguồn điện thay thế.
“Trong giai đoạn từ năm 2020-3030 sẽ bổ sung khoảng 6.000 MW điện than và LNG nhập khẩu, đủ năng lực để thay thế cho 4.600 MW dự án điện hạt nhân và giai đoạn sau 2030 sẽ tiếp tục đẩy mạnh nhiệt điện than, khí LNG, và năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời…”, ông Hưng cho hay. Khẳng định việc phát triển nhiệt điện than đối với Việt Nam là thực tiễn để đáp ứng cho tăng trưởng kinh tế lên tới hơn 7% trong thời gian tới, ông Lê Hồng Tịnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, điện năng vô cùng cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội. Do đó, cần làm sao để nhân dân hiểu đúng, hiểu đủ từ đó ủng hộ chủ trương đúng cho phát triển nguồn điện than.
“Các nguồn điện của Việt Nam đã được tính toán kỹ lưỡng. Nguồn thủy điện nhỏ khó phát triển thêm trong khi chủ trương không phát triển điện hạt nhân cho nên hiện nay Việt Nam vẫn phải làm nhiệt điện than vì không có con đường nào khác để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao cho phát triển kinh tế”, ông Tịnh nêu quan điểm. Cùng quan điểm này, PGS. TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam cho biết, theo xu hướng chung, các nước đều dùng nhiệt điện than để đáp ứng nhu cầu điện năng trong phát triển kinh tế sau khi đã khai thác triệt để các nguồn thủy điện.
“Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế, do đó nhu cầu điện năng rất cao. Trên thế giới, điện năng do nhiệt điện than vẫn là chủ đạo. Khi đất nước trở nên giàu có sẽ tiến đến phát triển các dạng năng lượng khác như điện tái tạo và hạn chế dần nhiệt điện than”, PGS. TS. Trương Duy Nghĩa khẳng định. [caption id="attachment_181618" align="aligncenter" width="665"]
Tro xỉ của nhà máy nhiệt điện than hiện chưa có các biện pháp xử lý lâu dài - Nguồn ảnh: Báo Tuổi trẻ[/caption]
Nhiều nhà máy điện nguy cơ ngừng sản xuất vì tro xỉ Mặc dù nhấn mạnh sự phát triển của công nghệ nhiệt điện than ngày càng tiến bộ, có thể xử lý tối đa các nguồn phát thải, từ các loại khí thải đến chất thải rắn. Song, các chuyên gia, doanh nghiệp và nhà quản lý cũng cho rằng, mối lo ngại lớn nhất hiện nay của Việt Nam chính là vấn đề chất thải rắn - tức là việc xử lý tro xỉ. Theo ông Lê Hồng Tịnh, ở các nước có nhà máy nhiệt điện, tro xỉ được coi như nguồn tài nguyên quý và được sử dụng triệt để. Nhưng ở nước ta, nhiều văn bản quy định khi ban hành không được nghiên cứu kỹ nên đã tự trói buộc, gây khó khăn cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp, vừa lãng phí tài nguyên vừa gây ô nhiễm môi trường. Cụ thể theo ông Trần Văn Lượng, Cục trưởng Cục An toàn Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), thực tế hiện nay việc xử lý tro xỉ nhà máy điện đang
“vướng” những quy định ngặt nghèo của Nghị định 38 của Chính phủ đưa tro xỉ nhiệt điện than vào danh mục quản lý chất thải và phế liệu.
“Khó khăn hiện nay trong công tác quản lý tro xỉ các nhà máy điện là phải nằm trong quy chuẩn. Nhưng quy chuẩn hiện nay chưa rõ ràng nên đã gây nhiều khó khăn cho các nhà máy nhiệt điện than. Bộ Công Thương đã xác định rõ mục đích phải bảo vệ môi trường nên đã ban hành Chỉ thị số 11 về bảo vệ môi trường ngành Công Thương”, ông Lượng cho hay. Theo tính toán của TS. Đào Danh Tùng, Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), nếu các nhà máy nhiệt điện cứ được đầu tư theo quy hoạch và lượng tro, xỉ thải ra không được xử lý, đến năm 2018 lượng tro xỉ sẽ tăng lên 61 triệu tấn, đến năm 2030 sẽ là 422 triệu tấn, tạo ra những thách thức rất lớn.
“Việt Nam sẽ phải sử dụng diện tích đất khổng lồ để làm bãi chứa xỉ than và nhiều áp lực môi trường khác, nguy cơ các nhà máy phải dừng sản xuất do không có đủ bãi chứa”, ông Tùng lo ngại. Nêu thực tế tại Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 1, ông Nguyễn Tiến Thảnh, Giám đốc Công ty Nhiệt điện Mông Dương cho biết, theo quy định, thì lẽ ra Nhà máy đã phải đóng cửa, nhưng sau khi sử dụng các biện pháp để sử dụng nguồn tro đáy, Nhà máy đã tăng thời gian hoạt động thêm 8 tháng.
“Nếu Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 1 đóng cửa sẽ dẫn đến Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 2 cũng phải đóng cửa. Khi 2 Nhà máy này đóng cửa, mỗi ngày Chính phủ sẽ phải trả lãi cho dự án khoảng 600.000 USD”, ông Thảnh lo lắng. Sự phát triển nhiệt điện than được xác định trong Quy hoạch điện 7 (được điều chỉnh) là phù hợp. Tuy nhiên, việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện phải đáp ứng yêu cầu công nghệ hiện đại gắn với xử lý môi trường. Ông Lê Hồng Tịnh cho rằng, Bộ Xây dựng cần phối hợp với các bộ điều chỉnh các quy chuẩn, tiêu chuẩn đối với việc sử dụng tro xỉ.
“Muốn vậy, cần sửa đổi ngay Nghị định 38 về quản lý chất thải và phế liệu để “cởi trói” cho tro xỉ, đưa tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện than trở thành nguồn tài nguyên có ích trong các ngành xây dựng và kinh tế”, ông Tịnh nói.
P. V