Tỷ trọng nhiệt điện than vẫn tiếp tục giữ ở mức đáng kể

28/03/2016 10:48

Quy hoạch điện VII sau khi được hiệu chỉnh đã giảm tỷ trọng nhiệt điện than và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu phát triển nguồn điện, số lượng các nhà máy nhiệt điện than giảm 18 nhà máy và tổng công suất nguồn nhiệt điện than từ trên 75 GW giảm xuống còn ~55 GW, tương đương giảm ~20 GW ở năm 2030, tuy nhiên tỷ trọng công suất nhiệt điện than vẫn ở mức cao vẫn chiếm 42.7% tổng công suất điện.

(CLO) Quy hoạch điện VII sau khi được hiệu chỉnh đã giảm tỷ trọng nhiệt điện than và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu phát triển nguồn điện, số lượng các nhà máy nhiệt điện than giảm 18 nhà máy và tổng công suất nguồn nhiệt điện than từ trên 75 GW giảm xuống còn ~55 GW, tương đương giảm ~20 GW ở năm 2030. Tuy nhiên, tỷ trọng công suất nhiệt điện than vẫn ở mức cao vẫn chiếm 42.7% tổng công suất điện.

Quy hoạch điện VII: Bộc lộ nhiều tồn tại đe doạ tính khả thi

Cắt giảm nhiệt điện than: Tín hiệu tích cực của Chính phủ Việt Nam

[caption id="attachment_89447" align="aligncenter" width="691"]nhiet dien than Ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Viện trưởng Viện năng lượng ( Bộ Công Thương) nhận định: Trong tương lai, Đông Nam Á nói riêng và toàn cầu nói chung vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. (Ảnh Internet)[/caption]

Tại Hội thảo “Phát triển năng lượng- Tăng trưởng Xanh- Biến đổi khí hậu: Nỗ lực và Khoảng trống”, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường ước tính, phát thải khí nhà kính của riêng việc đốt nhiên liệu trong ngành sản xuất năng lượng (nhiệt điện) của Việt Nam chiếm tới 31,1% tổng phát thải khí nhà kính năm 2020 và lên đến 51% tổng phát thải khí nhà kính năm 2030.

Ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Viện trưởng Viện năng lượng ( Bộ Công Thương) cho biết: Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo (NLTT) đến 2030, tầm nhìn đến 2050 đã ban hành; nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước rất quan tâm, tìm cơ hội đầu tư nguồn điện NLTT. Tuy nhiên, phát triển NLTT còn gặp một số thách thức về cơ chế và thể chế. Theo đó, biểu giá điện chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư, số các dự án điện còn quá ít, giá điện chưa tính đến chi phí ngoại sinh (môi trường, xã hội); Thiếu kỹ thuật, công nghệ vận hành và bảo dưỡng.

Về thể chế, ông Tuấn cho rằng hiện tại chúng ta chưa có quy hoạch phát triển NLTT: Tất cả các dự án NLTT đều phải báo cáo bổ sung quy hoạch; thông tin, dữ liệu về NLTT đang ở mức yếu và thiếu.

"Bên cạnh đó, Việc tác động lên hệ thống điện đòi hỏi phải điều độ, huy động công suất và tăng công suất dự phòng hệ thống đồng nghĩa với việc phải tăng giá điện bình quân: Ai trả cho chi phí tăng thêm này – khách hàng hay ngân sách?", ông Tuấn đặt câu hỏi

Vì những lý do cốt yếu trên, Phó Viện trưởng Viện năng lượng nhận định: Nguồn điện từ NLTT có nhiều ưu việt về thân thiện môi trường, phù hợp với phát triển bền vững, nhưng những hạn chế về giá thành cao, có đặc tính thiếu ổn định, phụ thuộc thời tiết, mùa vụ... vẫn là những thách thức lớn.

"Dù chúng ta không mong muốn, nhưng tỷ trọng nhiệt điện than vẫn còn tiếp tục giứ ở mức đáng kể trong cơ cấu sản xuất điện. Để giải quyết vấn đề này cần áp dụng tối đa các giải pháp công nghệ tiên tiến, hiệu quả, giảm nhẹ tác động tới môi trường – xã hội. Đồng thời sớm ban hành các cơ chế thích hợp, đủ mạnh (biểu giá, thuế,...) để thực sự khuyến khích phát triển các nguồn NLTT", ông Tuấn kiến nghị.

Giang Phan

giangphan