Đã đến lúc phải ngừng sử dụng năng lượng hoá thạch

13/05/2016 08:25

Việt Nam và thế giới đang đứng trước nguy cơ không đảm bảo về an ninh năng lượng khi mà nhu cầu tăng nhanh nhưng nguồn cung truyền thống đang dần cạn kiệt với tốc độ nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu hoá thạch đang tạo ra tác động tiêu cực đến sức khoẻ, môi trường và xã hội.

(CLO) Việt Nam và thế giới đang đứng trước nguy cơ không đảm bảo về an ninh năng lượng khi mà nhu cầu tăng nhanh nhưng nguồn cung truyền thống đang dần cạn kiệt với tốc độ nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu hoá thạch đang tạo ra tác động tiêu cực đến sức khoẻ, môi trường và xã hội.

[caption id="attachment_97635" align="aligncenter" width="1024"]nlht Mỗi tỉ kWh điện sản xuất từ than ước tính gây ra 24,5 ca tử vong, 225 ca bệnh nghiêm trọng và hơn 13.000 các vấn đề sức khoẻ khác. (Ảnh Internet)[/caption]

Những con số đáng báo động

Theo báo cáo nghiên cứu của Liên minh Năng lượng Bền vững Việt Nam (VSEA): Thế giới hiện đang phụ thuộc rất nhiều vào nhiên liệu hoá thạch. Năm 2013, dầu mỏ, than đá và khí đốt cung cấp tới 87% tổng năng lượng tiêu thụ trên toàn cầu. Còn ở Việt Nam, tỷ trọng các loại hình sản xuất điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch chiếm gần một nửa trong hệ thống điện quốc gia.

Tuy nhiên, những nguồn năng lượng truyền thống này đang dần cạn kiệt. Trên thế giới, với tốc dộ khai thác và tiêu thụ như hiện nay, ước tính trữ lượng dầu mỏ chỉ còn đủ dùng cho 53 năm, khí thiên nhiên còn khoảng 55 năm và than đá còn 113 năm. Tại Việt Nam, nếu giữ nguyên tốc độ khai thác như hiện nay thì dầu mỏ chỉ còn 34 năm, khí thiên nhiên còn 63 năm và đặc biệt than đá chỉ còn 4 năm.

Trong khi đó, cùng với quá trình tăng dân số, đô thị hoá và phát triển kinh tế, nhu cầu sử dụng năng lượng đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Theo số liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA, 2012): Trên thế giới, dự báo trong vòng 25 năm (2010-2035) nhu cầu năng lượng sẽ tăng lên 1.35 tấn. Còn ở Việt Nam, riêng về điện năng, nhu cầu tăng lên 7-8 lần trong vòng 20 năm (từ 100 tỉ kWh năm 2010 đến 695-834 tỉ kWh vào năm 2013)

Từ đó, dẫn đến tình trạng cung không đủ cầu. Việc này sẽ đe doạ trựa tiếp đến an ninh năng lượng tại nhiều khu vực trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nguồn than trong nước không còn đủ sản xuất điện, ước tính cần nhập khẩu khẩu 10-12 triệu tấn vào năm 2020, 30-32 triệu tấn vào năm 2015 và khoảng 50-65 triệu tấn vào năm 2030.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam sẽ bị phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhiên liệu của nước ngoài. Trong khi đó, giá nhiên liệu trên thị trường quốc tế liên tục biến động bới tình hình kinh tế, chính trị, công nghệ... Hệ quả là vấn đề an ninh năng lượng quốc gia sẽ không còn được đảm bảo.

Than - ngọn nguồn của thảm họa

Việc khai thác và sử dụng các loại năng lượng hoá thạch, đặc biệt là than đang tác động nghiêm trọng đến môi trường và xã hội.

Các nhà khoa học cho biết, than đang làm ô nhiễm bầu không khí chúng ta hít thở, nguồn nước chúng ta dùng và đất đai chúng ta sống.

Quá trình khai thác và tiêu thụ than thải vào môi trường một lượng lớn khí CO2, NOx, SOx, các hạt bụi phân tử (PM 2,5), thuỷ ngân, nhiều kim loại nặng như chì, cadmium, asen, và các chất độc hại khác. Việc này không chỉ làm ô nhiễm môi trường mà còn tác động nghiêm trọng tới hệ sinh thái và sức khoẻ con người.

Các chất NOx, SOx thải vào khí quyển là thành phần chính gây mưa axit, phá hoại mùa màng và làm hỏng các công trình xây dựng.

Nước thải từ những mỏ than chứa axit và các chất gây ô nhiễm đất, từ đó còn làm ô nhiễm sông hồ, tác động tới hệ thuỷ sinh. Khai thác than bằng phương pháp lộ thiên còn xoá sổ hoàn toàn thảm thực vật và lớp đất mặt, gia tăng xói mòn đất và làm mất đi nơi trú của nhiều sinh vật. Khai thác than bằng phương pháp hầm lò còn gây lún đất, ô nhiễm nước và nguy cơ xảy ra tai nạn hầm lò.

Ô nhiễm không khí do than gây ra nhiều bệnh về tim và hô hấp, trong đó chứng viêm nhiễm đường hô hấp dưới, ung thư, đột quỵ và các bệnh tim mạch khác nằm trong số các bệnh gây tử vong hàng đầu. Tiếp xúc với bụi than trong thời gan dài có thể gây bệnh phổi đen với biểu hiện là viêm xơ phổi và đôi khi là hoại tử, hiện vẫn chưa có cách chữa trị căn bệnh này.

Còn đối với việc khai thác dầu khí cũng đã tạo ra hiều vấn đề môi trường như ô nhiễm dầu với đất, không khí và nước, rò rỉ giếng khoan, dầu loang, đắm tàu và các sự cố tràn dầu, nguy cơ lún đất khi khai thác thềm lúc địa. Điển hình, năm 2013, vụ dầu loang ở Quy Nhơn, Bình Định đã làm ô nhiễm bờ biển với hơn 50 tấn váng dầu lẫn trong cát được thu gom và làm chết cá của nhiều hộ nuôi trồng thuỷ sản trong khu vực.

Bên cạnh đó, ở nhiều nơi, việc quản lý kém tài nguyên như than, dầu, khí còn là nguyên nhân của nghèo đói, tham nhũng và xung đột.

Rõ ràng, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ không đảm bảo an ninh năng lượng và các tác động môi trường, xã hội và khí hậu của năng lượng hoá thạch, đòi hỏi Chính phủ cần tìm đến những giải pháp bền vững hơn.

[su_note note_color="#f6ecf5"]

Ở Trung Quốc, ô nhiễm không khí bởi các phân tử bụi nhỏ là một nguy cơ sức khoẻ hàng đầu, đóng góp 1,2 triệu ca tử vong sớm và làm mất 25 triệu năm tuổi thọ ở Trung Quốc năm 2010. Còn ở Việt Nam, hơn chục hộ dân ở Đại Từ, Thái Nguyên đã bị vùi lấp do sạt lở bãi thải của mỏ than Phấn Mễ. Qua nhiều năm tồn lưu, lượng đất đá thải ra chất cao như núi trên diện tích khoảng 3 hecta. [/su_note]

giangphan