Trung Quốc, Ấn Độ chỉ tạm thời phụ thuộc vào năng lượng Nga?
(CLO) Trung Quốc và Ấn Độ đang rút lại việc mua dầu thô của Nga trước khi G7 áp trần giá và lệnh cấm nhập khẩu của Liên minh Châu Âu đến thời hạn, HSNW mô tả.
Cảnh giác mua năng lượng của Nga
Mối quan tâm quan trọng hơn của thị trường là liệu sự “cảnh giác” của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là một xu hướng nhất thời sẽ bị đảo ngược hay sẽ là phương án trong lâu dài.
Trong năm nay, Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới và Ấn Độ, nước lớn thứ ba đã ngày càng phụ thuộc vào dầu thô giá rẻ của Nga khi Moscow tìm cách duy trì khối lượng xuất khẩu sau khi bị các nước phương Tây xa lánh.

Ảnh minh hoạ: Reuters.
Mục tiêu của việc áp trần giá dầu mỏ Nga của G7 và lệnh cấm nhập khẩu của EU là cắt giảm doanh thu mà Nga nhận được từ xuất khẩu dầu thô và các sản phẩm của nước này, đồng thời là một phần trong nỗ lực trừng phạt Moscow vì cuộc xung đột Ukraine - Nga.
Các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc đã bắt đầu giảm mua dầu thô của Nga vào tháng 12 theo các thương nhân và chuyên gia trong ngành tại Trung Quốc nhận định. Tuy nhiên, trong tháng 11, Trung Quốc được dự báo sẽ mua 1,80 triệu thùng dầu thô của Nga mỗi ngày (bpd), tăng từ mức 1,69 triệu thùng/ngày của tháng 10 và phù hợp với mức 1,82 triệu thùng/ngày của tháng 9, theo dữ liệu do Refinitiv Oil Research tổng hợp.
Cũng có khả năng Nga sẽ vượt qua Ả Rập Xê-út để trở thành nhà cung cấp dầu thô lớn nhất của Trung Quốc vào tháng 11, với hai thành viên hàng đầu của nhóm OPEC+ đã hoán đổi vị trí hàng đầu nhiều lần cho đến nay trong năm nay.
Bên cạnh đó, các nhà máy lọc dầu của Ấn Độ cũng cảnh giác với việc mua dầu thô của Nga sau lệnh cấm nhập khẩu của EU và mức trần giá đề xuất có hiệu lực vào ngày 5/12. Các nhà máy lọc dầu hàng đầu đất nước đông dân thứ nhì toàn cầu là Reliance Industries và Bharat Oil đang rút lại các đơn đặt hàng, theo hai nguồn thạo tin.
Trong những tháng gần đây, Ấn Độ đã tăng nhập khẩu dầu thô của Nga, vì thế nếu giảm mua cũng sẽ không khiến quốc gia này bị ảnh hưởng nặng nề. Refinitiv ước tính lượng hàng đến nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới trong tháng 11 là 1,0 triệu thùng/ngày, điều này sẽ khiến Nga trở thành nhà cung cấp hàng đầu trong tháng, vượt qua 960.000 thùng/ngày của Iraq.
Thách thức mua dầu mỏ Nga
Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc và Ấn Độ có một lần nữa chuyển sang sử dụng dầu mỏ của Nga trong năm mới hay liệu sự không chắc chắn do giá trần và lệnh cấm của EU sẽ kéo dài hay không.
Có khả năng cả hai quốc gia sẽ quan tâm đến việc mua dầu thô của Nga, đặc biệt nếu loại nhiên liệu này được giảm giá mạnh so với các loại từ Trung Đông và Châu Phi.
Tuy nhiên, vẫn sẽ tồn tại một số vấn đề mà các nhà máy lọc dầu ở cả hai quốc gia sẽ phải giải quyết.
Các vấn đề về thanh toán và vận chuyển như bảo hiểm có thể trở nên phức tạp hơn, mặc dù có khả năng các nhà tinh chế và thương nhân đủ thông minh để tìm ra cách duy trì hoạt động kinh doanh.
Trên thực tế, khó khăn chính có thể là tìm đủ nguồn tàu để vận chuyển dầu thô từ các cảng phía Tây của Nga đến châu Á.
Hiện tại, phần lớn dầu thô mà Trung Quốc mua từ Nga đến từ các cảng phía Đông. Dữ liệu của Refinitiv cho thấy trong số 3,42 triệu tấn dầu vận chuyển bằng đường biển đến vào tháng 11, tất cả trừ 705.000 tấn đến từ các cảng Thái Bình Dương và Bắc Cực.
Trung Quốc dự kiến sẽ nhập khẩu 705.000 tấn loại Urals của Nga, đây là loại chính được cung cấp cho các nhà máy lọc dầu châu Âu từ các cảng phía Tây của đất nước.
Trước cuộc tấn công của Nga vào Ukraine, Trung Quốc chỉ mua một lượng nhỏ dầu thô Urals, nhưng lượng này bắt đầu tăng vào tháng 5, đạt mức cao nhất là 739.860 tấn vào tháng 6.
Câu hỏi đặt ra là liệu Nga và Trung Quốc có đủ tàu chở dầu để tăng vận chuyển dầu thô Urals hay không? Loại nhiên liệu này sẽ phải đi qua Kênh đào Suez hạn chế kích thước của tàu thuyền hoặc đi theo con đường dài quanh Mũi Hảo Vọng ở Nam Phi.
Ấn Độ, quốc gia gần các cảng phía Tây của Nga hơn Trung Quốc, đã tăng cường mua xe Urals sau khi bắt đầu chiến tranh ở Ukraine. Nước này dự kiến sẽ nhập khẩu 3,13 triệu tấn dầu thô Ural trong tháng 11, giảm từ mức cao kỷ lục 3,54 triệu trong tháng 10, nhưng cao hơn nhiều so với mức 135.000 tấn từ tháng 11 năm ngoái.
Nếu Nga muốn tăng các chuyến hàng đến Trung Quốc và Ấn Độ, hoặc những người mua tiềm năng khác ở châu Á, họ sẽ phải đảm bảo có thêm tàu hoặc đạt được thỏa thuận với các nhà nhập khẩu để sử dụng đội tàu chở dầu của họ.
Chính hạn chế này có thể là tấm khiên cản trở xuất khẩu của Nga sang châu Á, chứ không phải giới hạn giá của G7.
Khánh Vy (Theo HSNW)