Nghị quyết 68-NQ/TW: Không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự là giải pháp ấn tượng
(CLO) TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, để hoàn thành các mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 68, cách thức thực hiện cần có sự chỉ đạo rõ ràng từ trên xuống, mang tính bắt buộc, mạnh mẽ.
Những bước tiến lớn của Nghị quyết 68-NQ/TW
Thưa ông, cảm nhận đầu tiên của ông về Nghị quyết 68-NQ/TW vừa được Bộ Chính trị ban hành là gì?
- Ấn tượng đầu tiên của tôi là Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã đánh giá rất đúng vai trò, vị trí, đặc biệt là những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả trong hiện tại và tương lai.
Điều thứ hai đáng chú ý là Nghị quyết lần này đã đưa ra một hệ thống giải pháp tương đối đầy đủ, đồng bộ và thẳng thắn, nhất là trong việc giải quyết hai vấn đề cốt lõi của khu vực tư nhân hiện nay, đó là doanh nghiệp không muốn lớn và doanh nghiệp không thể lớn.

Vây, trong những giải pháp được nêu tại Nghị quyết 68, đâu là giải pháp có điểm đột phá nhất, thưa ông?
- Tôi đặc biệt ấn tượng với giải pháp không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, lâu nay ít được bàn đến một cách thẳng thắn, nhưng lần này đã được đề cập khá cụ thể và quyết liệt.
Bên cạnh đó, việc quy định mỗi doanh nghiệp chỉ bị thanh tra một lần trong năm là một bước tiến lớn. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp an tâm hơn khi mở rộng quy mô, đầu tư dài hạn mà không lo rủi ro pháp lý rình rập.
Tuy nhiên, Nghị quyết đề ra giải pháp và mục tiêu đạt rất cao trong khi thời gian tương đối ngắn, điều này sẽ tạo ra một áp lực cực kỳ lớn đối với Chính phủ cũng như là các cái cơ quan để thực thi Nghị quyết.
Tôi nhận thấy, nếu vẫn giữ nguyên cách thức thực hiện như hiện nay thì rất khó hoàn thành các mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết.
Hiện nay, cách thức thực hiện vẫn dựa vào Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, địa phương ban hành kế hoạch hành động. Thế nhưng, phương pháp này gặp nhiều thách thức do còn phụ thuộc vào bộ máy hành chính nhà nước và khả năng thực thi Nghị quyết. Cách làm này thường chậm, ví dụ như mất từ 3-6 tháng để xây dựng kế hoạch, đến khi hoàn thành đã hết năm 2025 rồi.
Chúng ta cần phải làm gì để khắc phục tình trạng đó, thưa ông?
- Tôi cho rằng, để hoàn thành các mục tiêu đề ra, cách thức thực hiện cần có sự chỉ đạo rõ ràng từ trên xuống, mang tính bắt buộc, mạnh mẽ.
Theo tôi, phải thành lập một tổ công tác đặc biệt do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, quy tụ các chuyên gia độc lập, có kinh nghiệm và tâm huyết. Họ sẽ trực tiếp rà soát các quy định pháp luật, điều kiện kinh doanh, đảm bảo khách quan và phù hợp thực tiễn. Có như vậy mới thực sự tháo gỡ được các điểm nghẽn đang kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, phải đánh giá định kỳ hàng tháng, hàng quý, công khai số liệu, lý giải rõ vì sao doanh nghiệp tăng hay giảm, để có hành động phù hợp.
Giải pháp để hoàn thành mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030
Về mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030, ông nhìn nhận thế nào?
- Để đạt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp hoạt động vào 2030, mỗi năm Việt Nam cần tạo ra khoảng 200.000 doanh nghiệp mới. Tốc độ tăng trưởng này cần đạt trung bình 10-20% mỗi năm, tương tự các nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, tốc độ tăng doanh nghiệp của chúng ta chỉ khoảng 3-4% hoặc thấp hơn, thậm chí có năm âm, cho thấy rõ sự chậm trễ hoặc thiếu động lực phát triển.
Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần tổng hợp các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn, đất đai, khoa học công nghệ, cùng với các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là toàn bộ các giải pháp thực hiện Nghị quyết 68.
Muốn đạt được mục tiêu có 200.000 doanh nghiệp tham gia, trước tiên phải cải thiện mạnh mẽ thủ tục gia nhập thị trường và thành lập doanh nghiệp. Chúng ta cần tạo ra một môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, an toàn và tin cậy để doanh nghiệp yên tâm hoạt động, đầu tư.
Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần rút ra kinh nghiệm từ những lần trước.
Theo tôi, việc giao trách nhiệm cho một bộ hoặc cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện mục tiêu là rất quan trọng. Người đứng đầu phải có trách nhiệm rõ ràng và thực sự quan tâm đến khu vực kinh tế tư nhân.
Đồng thời, cần có một đội ngũ độc lập, chuyên trách theo dõi, đánh giá và kiến nghị các giải pháp, đề xuất kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền.
Tôi hy vọng rằng lần này, chúng ta sẽ có cách tư duy mới, hệ thống giải pháp đồng bộ theo đúng tinh thần Nghị quyết 68, thực thi quyết liệt để mục tiêu đề ra có thể đạt được.

Còn phía doanh nghiệp thì sao, họ cần làm gì để "muốn lớn" và "có thể lớn"?
- Muốn lớn mạnh và mở rộng quy mô, doanh nghiệp không thể tiếp tục đầu tư theo kiểu tràn lan, tùy tiện và quản lý theo lối cũ, thiếu khoa học. Thay vào đó, cần quản lý chuyên nghiệp, có hệ thống, ứng dụng công nghệ quản lý tiên tiến, chuyên môn hoá. Điều này đòi hỏi người quản lý, nhà đầu tư phải liên tục học hỏi, thay đổi tư duy để thích nghi với xu thế và cảnh quan phát triển mới.
Chỉ khi đó, chúng ta mới tận dụng tốt các cơ hội phát triển bền vững thay vì theo kiểu ngắn hạn. Đồng thời, vấn đề kinh doanh có trách nhiệm cũng phải được đặt lên hàng đầu.
Doanh nghiệp không chỉ hướng tới lợi ích riêng mà còn phải có trách nhiệm xã hội, coi tài sản là tài sản của cộng đồng, sản phẩm của xã hội – người chủ doanh nghiệp cần có tinh thần cống hiến, đam mê và ý thức phục vụ lợi ích chung.
Khi doanh nghiệp phát triển bền vững dựa trên tinh thần đó, thì sự phát triển sẽ bền vững hơn về cả lâu dài và xã hội.
Xin cảm ơn ông !