Một ngòi bút tâm huyết, trí tuệ với nghề làm báo
(CLO) Với Đại tá, nhà báo Nguyễn Văn Hải (bút danh Thiện Văn, Phúc Nội), tôi quý trọng anh ở tính cách giản dị, khiêm nhường và ứng xử với cộng tác viên chân thành, tình nghĩa. Không chỉ chú trọng việc đặt bài, tổ chức bản thảo, biên tập bài vở chu đáo cho cộng tác viên, Nguyễn Văn Hải còn là một ngòi bút sung sức, giàu năng lượng.
1. Tôi quen biết nhà báo Nguyễn Văn Hải khoảng 15 năm nay. Thời gian đó chưa phải là dài nhưng cũng không phải là ngắn cho một mối quan hệ nghề nghiệp xã hội. Từng nhiều năm công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm nghiên cứu lý luận phê bình văn học và có hai thập niên làm cộng tác viên thân thiết của Báo Quân đội nhân dân, tôi có duyên cộng tác với nhiều cây bút thành danh của tờ báo chiến sĩ như Đại tá, nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng; Đại tá, nhà thơ, nhà báo Trần Anh Thái; Thiếu tướng, nhà báo Đoàn Xuân Bộ; Đại tá, nhà báo, tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải… Những nhà báo đó đều để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp về tài năng, phong cách và tấm lòng nhà báo chiến sĩ.
.jpg)
Với Đại tá, nhà báo Nguyễn Văn Hải (bút danh Thiện Văn, Phúc Nội), tôi quý trọng anh ở tính cách giản dị, khiêm nhường và ứng xử với cộng tác viên chân thành, tình nghĩa. Không chỉ chú trọng việc đặt bài, tổ chức bản thảo, biên tập bài vở chu đáo cho cộng tác viên, Nguyễn Văn Hải còn là một ngòi bút sung sức, giàu năng lượng. Tốt nghiệp sĩ quan chính trị với tấm bằng loại giỏi năm 1997, sau hơn 4 năm công tác ở đơn vị cơ sở, cuối năm 2001, anh được điều động về làm phóng viên Báo Quân khu 2 và đầu năm 2008, anh chuyển về công tác tại Báo Quân đội nhân dân. Có lần anh tâm sự với tôi, hồi mới về “đầu quân” cho tờ báo chiến sĩ, anh không khỏi bị “choáng ngợp” trước nhiều gương mặt tài năng, nhiều cây bút sắc sảo ở cơ quan báo chí hàng đầu của quân đội và đất nước. Với mong muốn không lép vế trước các đồng nghiệp cùng trang lứa, anh nhủ lòng mình phải tự nỗ lực rèn luyện ngòi bút, tự chứng minh khả năng, năng lực nghề nghiệp của mình bằng những tác phẩm báo chí có chất lượng.

Công tác ở Báo QĐND gần hai thập niên mà giành tới 20 giải thưởng báo chí chính thức cấp quốc gia, toàn quốc, toàn quân (trong đó có 6 giải Báo chí quốc gia (3 giải A, 1 giải B, 2 giải C) và 3 giải Búa liềm vàng toàn quốc (2 giải A, 1 giải B) đã nói lên phần nào bút lực sung sức của nhà báo Nguyễn Văn Hải. Ngoài say mê viết báo, mấy năm gần đây, anh còn đều đặn ra mắt một số cuốn sách (do Nhà xuất bản QĐND xuất bản) như: “Góp phần xây dựng đạo đức, văn hóa trong Đảng” (chuyên luận, 2020), “Đừng tự sụp đổ dưới chân mình” (tiểu phẩm, 2020), “Tỏa ngát danh thơm Bộ đội Cụ Hồ” (chuyên luận và ký chân dung, 2024). Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2025), nhà báo Nguyễn Văn Hải ra cuốn sách “Báo chí nuôi dưỡng niềm tin” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật).
2. Tại sao báo chí phải nuôi dưỡng lòng tin? Để giải đáp câu hỏi này, 50 tác phẩm trong cuốn sách viết về nghề báo được kết cấu thành 5 phần (mỗi phần gồm 10 bài): Sứ mệnh và trách nhiệm; Đạo đức báo chí; Trao đổi nghiệp vụ; Giữ gìn chuẩn mực tiếng Việt; Tâm sự người làm báo.

Nuôi dưỡng, bồi đắp lòng tin vào những giá trị tích cực, tốt đẹp của con người và xã hội cho độc giả vừa là sứ mệnh cao cả, vừa là trách nhiệm nặng nề, đồng thời cũng là bổn phận thiêng liêng của nhà báo. Lý do tồn tại của nhà báo trước hết phải khởi nguồn từ vấn đề căn cốt này, nếu không nhà báo sẽ không xứng đáng với danh xưng cao quý của mình. Từ ý tứ này, tác giả đã triển khai nhiều bài viết mang thông điệp sâu sắc để báo chí giữ được niềm tin cho độc giả, ví như: “Nhận thức đúng về phản biện xã hội trên báo chí”, “Bình luận phải khách quan, thấu lý, đạt tình”, “Giữ gìn uy tín nhà báo và cơ quan báo chí”, “Tuyên truyền người tốt, việc tốt - lợi cả đôi đường”, “Trách nhiệm xã hội của nhà báo trong thời đại công nghệ số”,…
Xoay quanh vấn đề báo chí nuôi dưỡng niềm tin, những bài viết về đạo đức báo chí được coi là giải pháp căn cơ, bền vững để báo chí không bị độc giả “quay lưng”, ngược lại tìm thấy ở báo chí như người bạn đồng hành tin cậy, người dẫn dắt dư luận xã hội hướng đến giá trị chân-thiện-mỹ và người gieo vào lòng công chúng năng lượng sống tích cực, nhân văn. Phía sau những lời cảnh tỉnh nghiêm khắc về sự tha hóa đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận nhỏ nhà báo “mắt cú, lòng đen, bút chém, túi đầy” là một tấm lòng nồng ấm của tác giả mong mỏi những người gắn bó với nghiệp chữ nghĩa luôn được giữ “mắt sáng, lòng trong, bút sắc” và sâu xa hơn, để báo chí làm tròn thiên chức nuôi dưỡng lòng tin, thu hút độc giả, thuyết phục lòng người.
Muốn sức mạnh ngòi bút của nhà báo được lan tỏa, thẩm thấu vào tình cảm, tâm hồn, suy nghĩ của độc giả thì người làm báo không thể không tinh thông nghiệp vụ, có kỹ năng làm báo thành thạo, nhất là khả năng chia sẻ, thấu cảm với đối tượng phản ánh và nhạy cảm với những vấn đề có thể làm tổn thương niềm tin của độc giả. Một điều không kém phần quan trọng là người làm báo nhất thiết phải am hiểu tiếng Việt, biết cách sử dụng ngôn từ mẹ đẻ một cách tinh tế, chính xác, chuẩn mực để vừa nâng cao hàm lượng văn hóa trong tác phẩm, vừa đạt được mục đích, hiệu quả truyền thông, đồng thời truyền cảm hứng cho độc giả cùng chung tay góp sức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đó là thông điệp được tác giả chuyển tải trong các phần “Trao đổi nghiệp vụ” và “Giữ gìn chuẩn mực tiếng Việt”.
Như “bánh đúc bày sàng”, nhìn vào ngôn ngữ có thể đánh giá con người nhà báo. Tác giả nêu ra các yêu cầu cần thiết để có được chuẩn mực tiếng Việt, từ cách đặt tên bài đến lối dùng từ sao cho phù hợp, chính xác, tinh tế, tránh lạm dụng tiếng nước ngoài… Phong cách báo chí Nguyễn Văn Hải mang tính hệ thống cao, vấn đề luôn được phân tích thấu đáo, ngọn ngành, chứng lý rõ ràng, ví dụ nổi bật. Tác giả phân tích thuyết phục hai phong cách ngôn ngữ đạt tới chuẩn mực tiếng Việt tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh (tinh tế, chính xác) và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (gần gũi, truyền cảm).
3. Những người gắn bó với nghiệp chữ nghĩa thường có trái tim ưu thời mẫn thế với thời cuộc, nhạy cảm với những điều xảy ra xung quanh mình và có thể trút bầu tâm sự, chia sẻ nỗi niềm cá nhân song vẫn không tách khỏi những vấn đề chung của nghề nghiệp, xã hội và thời cuộc. Phần cuối cuốn sách “Tâm sự người làm báo” là trải lòng về những vui-buồn, sướng-khổ, thăng-trầm, vinh quang-cay đắng của người trong cuộc, nhưng cũng là những lời bộc bạch rất đỗi chân thành, sâu sắc của tác giả đối với nghề báo. Một nỗi lo về sự viết thiếu trung thực vì hệ lụy “bút sa gà chết”; một nỗi niềm về nguy cơ phải đính chính trong công việc làm báo; một nỗi buồn khi chứng kiến lời rẻ rúng của độc giả về tác phong làm việc cẩu thả của nhà báo…được tác giả “rút ruột” nói ra nhẹ nhàng mà thấm thía. Ở chiều sâu hơn, “Tâm sự người làm báo” còn là mong muốn các thành phần trong xã hội thấu hiểu, sẻ chia với những khó khăn, vất vả, áp lực vô hình của nghề báo và động viên, tạo thuận lợi cho các nhà báo yên tâm công tác, vững bước trên hành trình sự nghiệp vẻ vang mà cũng đầy gian nan, thử thách.

Điều ấn tượng và cũng là thông điệp xuyên suốt của sứ mệnh báo chí nuôi dưỡng lòng tin đã được nhà báo Nguyễn Văn Hải thể hiện trong bài viết “Đôi điều tâm sự về ngòi bút”. Tác giả quan niệm: “Phấn đấu để có những “bút sắc”, “bút đúng”, “bút ngọt”, “bút hay”, “bút sáng”, “bút đẹp” thực chất là phấn đấu nâng cao lương tâm nghề nghiệp trong sáng, đạo đức công dân lành mạnh, trách nhiệm xã hội cao cả và năng lực nghiệp vụ tinh thông trong hành trang của người làm báo. Mặt khác, ngăn ngừa, hạn chế và tiến tới loại bỏ các kiểu viết lách dễ làm cho “mòn bút”, “cong bút”, “bồi bút”, “dở bút”, “đen bút”, “xấu bút” là tiếng nói góp phần làm trong sạch hóa nghề nghiệp, tôn lên vẻ đẹp, sức mạnh và giá trị của ngòi bút đối với sự phát triển tiến bộ, nhân văn của con người và xã hội”.
Khi bàn luận về mô hình chủ thể nhà báo - một kiểu kiến tạo nhân cách, tác giả có bài “Thử phác họa phong cách chân dung nhà báo chiến sĩ”, với 5 tiêu chí: Tinh thần chăm chỉ, tác phong chững chạc, kỷ luật chặt chẽ, tư duy chín chắn, tác phẩm chỉn chu. Theo tinh thần đối thoại, có thể thêm bớt, bổ sung, nhưng phải khẳng định một mô hình chân dung nhà báo chiến sĩ được tác giả đưa ra khá toàn diện, hợp lý.
Ở phương diện tác phẩm, bài viết “Từ bài báo đến trang sách giáo khoa” mang tính tâm sự về một thành quả cá nhân. Cũng nên coi đây là thành quả của báo chí nói chung. Bởi rất hiếm tác phẩm báo chí đương đại được làm mẫu mực để đưa vào Chương trình giáo dục phổ thông mới. Đó là bài “Phòng ngừa “bệnh” nói, viết sáo rỗng” (được in trong cuốn sách) mang tính phổ quát cao, bởi ai cũng có thể mắc lỗi này. Bởi vậy, phòng tránh “bệnh” nói, viết sáo rỗng không chỉ là “lời răn” cho cá nhân (tác giả khiêm tốn nhận vậy), mà còn là “lời răn” chung cho tất cả. Làm nghề viết, ai cũng mong một lần được làm chủ một tác phẩm hay, có ích cho xã hội, cộng đồng! Tác giả Nguyễn Văn Hải đã phần nào đạt được mục đích đó trong nghề nghiệp và đây cũng là sự khơi gợi thú vị, đáng đọc một cuốn sách bổ ích về nghề báo.