Sáp nhập Hải Phòng – Hải Dương: Cơ chế đặc thù được kỳ vọng sẽ tạo bứt phá lớn
(CLO) Chiều tối 19/6, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng.
Trình bày báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết dự thảo Nghị quyết đã được chỉnh lý theo hướng bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đúng thẩm quyền của Quốc hội và các luật liên quan, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của thành phố Hải Phòng sau khi thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Dự thảo quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng trong các lĩnh vực quản lý đầu tư; tài chính, ngân sách nhà nước; quy hoạch, đô thị, tài nguyên và môi trường; khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; chế độ thu nhập đối với cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt và lao động trình độ cao; cùng với đó là cơ chế về thành lập và hoạt động của Khu thương mại tự do tại thành phố.
Về phạm vi áp dụng, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết có ý kiến đại biểu Quốc hội nêu rằng theo định hướng mở rộng địa giới hành chính, Hải Phòng sẽ sáp nhập với tỉnh Hải Dương. Do đó, cần rà soát, đánh giá chính xác địa giới hành chính để xác định phạm vi chính sách phù hợp với địa bàn mới, phát huy được hiệu quả tổng thể.
Giải trình nội dung này, Chính phủ cho biết theo văn bản số 14708-CV/VPTW ngày 5/5/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương cho phép các địa phương sau sáp nhập được tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù mà Quốc hội đã cho phép thực hiện trước khi sáp nhập.
Trong quá trình xây dựng dự thảo, Chính phủ chủ động bám sát định hướng lớn của Đảng, Nhà nước, nhất là về đổi mới tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính. Bộ Tài chính đã phối hợp với thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương để rà soát hiện trạng, đánh giá tiềm năng phát triển, xác định các động lực tăng trưởng và định hướng chính sách phù hợp với đặc điểm của cả hai địa phương.
Do đó, các nội dung chính sách trong dự thảo được thiết kế linh hoạt, nhằm phát huy lợi thế và tiềm năng không chỉ của thành phố Hải Phòng hiện tại mà còn phù hợp với định hướng phát triển đồng bộ cho toàn địa bàn Hải Phòng – Hải Dương sau hợp nhất. Điều này tạo nền tảng vững chắc để thành phố Hải Phòng sau sáp nhập tiếp tục giữ vai trò là một cực tăng trưởng quan trọng của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi, đại diện cơ quan thẩm tra, cho biết Ủy ban thống nhất với nhiều nội dung tiếp thu, giải trình của Chính phủ.

Liên quan đến điều khoản thi hành (khoản 6 Điều 12), dự thảo quy định: “Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành có quy định cơ chế, chính sách ưu đãi hoặc thuận lợi hơn Nghị quyết này thì việc áp dụng do UBND thành phố quyết định”. Thường trực Ủy ban nhận định rằng quy định này có thể giúp rút ngắn quy trình, bảo đảm tính kịp thời trong tổ chức thực hiện, tuy nhiên cũng cần cân nhắc bảo đảm tính thống nhất với các Nghị quyết khác. Cụ thể, theo Nghị quyết 136/2024/QH15 và Nghị quyết 137/2024/QH15 về cơ chế đặc thù cho thành phố Đà Nẵng và tỉnh Nghệ An, thẩm quyền quyết định hiện đang được giao cho HĐND cấp tỉnh.
Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với nhiều nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết. Đồng thời đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để bảo đảm thực hiện đúng chủ trương đổi mới của Đảng, Nhà nước trong công tác xây dựng pháp luật; tiếp thu đầy đủ ý kiến của đại biểu Quốc hội và hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội bảo đảm chất lượng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nhấn mạnh yêu cầu Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn thiện hồ sơ, dự thảo Nghị quyết một cách rõ ràng, minh bạch, gắn với trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan. Nghị quyết cần bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, phòng chống tiêu cực, không để xảy ra thất thoát, lãng phí, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân và hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với nhà đầu tư.