Bài Cuối: Để Nghị quyết 68 là đòn bẩy cho kinh tế tư nhân phát triển bứt phá
Nghị quyết 68 được coi là một hành lang pháp lý rất ý nghĩa để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận đất đai, đồng thời, là đòn bẩy cho kinh tế tư nhân bứt phá. Để cụ thể hóa nghị quyết thành hành động rất cần sự vào cuộc nhanh chóng của Chính phủ, sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành và địa phương trong việc hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các “nút thắt” để “mở khóa” đất đai, chống lãng phí, tiếp sức cho kinh tế tư nhân phát triển.

Nghị quyết 68 được coi là một hành lang pháp lý rất ý nghĩa để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận đất đai, đồng thời, là đòn bẩy cho kinh tế tư nhân bứt phá. Để cụ thể hóa Nghị quyết thành hành động rất cần sự vào cuộc nhanh chóng của Chính phủ, sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành và địa phương trong việc hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các “nút thắt” để “mở khóa” đất đai, chống lãng phí, tiếp sức cho kinh tế tư nhân phát triển.

N
ghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68) được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong việc tháo gỡ khó khăn về đất đai cho khối này. Để cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết thì cần biến chủ trương đúng đắn thành hành động thực tiễn. Điều này được nhiều đại biểu Quốc hội phân tích và cho rằng, chỉ có sự quyết tâm, quyết liệt của Quốc hội, Chính phủ cùng sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành và địa phương trong hoàn thiện thể chế mới có thể tháo gỡ được các nút thắt để “mở khóa” đất đai, tạo đòn bẩy để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn.

Trao đổi với phóng viên Báo NB&CL, đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng – nguyên Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, tại địa phương cũng tồn tại những dự án chậm triển khai do “ôm đất”, sai mục đích sử dụng hoặc vướng xử lý thu hồi. Trong khi đó, quy trình tiếp cận đất đai đối với doanh nghiệp quá phức tạp. “Có dự án phải mất hai năm để xin ý kiến chuyển đất rừng sang mục đích khác”, ông Đồng nói.
Qua kinh nghiệm xử lý những “dự án treo”, giúp doanh nghiệp tư nhân tiếp cận đất đai thuận lợi hơn, đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng cho biết, địa phương đã thành lập Tổ công tác đặc biệt của Ban Thường vụ Tỉnh ủy để “gỡ vướng theo từng dự án”. Tổ này có thể tạm áp dụng quy hoạch mới đã được thông qua chủ trương – thay vì chờ phê duyệt chính thức. Nhờ đó, một số dự án đã được “kích hoạt” trở lại.
“Khi có sự phối hợp giữa địa phương và các bộ, ngành, cùng tinh thần vừa làm, vừa tháo gỡ, nhiều vướng mắc có thể xử lý nhanh chóng. Quan trọng nhất là phải minh bạch và vì lợi ích chung”, ông Hà Sỹ Đồng nói.
Nhấn mạnh Nghị quyết 68 được coi là một hành lang pháp lý rất ý nghĩa để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, từ chủ trương đến triển khai thực tế vẫn là một vấn đề lớn được dư luận quan tâm. Để triển khai Nghị quyết này hiệu quả trong thực tế, nguyên Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng đã đưa ra một số kiến nghị.
Cụ thể, thứ nhất, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 68 một cách rõ ràng, nhất quán và thống nhất giữa các bộ, ngành. Đồng thời, tránh tình trạng Luật tháo gỡ và Nghị quyết thì cởi mở, thông thoáng nhưng nghị định, thông tư lại vẫn siết chặt. Điều này cần phải thật minh bạch.
.jpg)
Thứ hai, cần trao quyền chủ động cho địa phương, thực hiện phân cấp, phân quyền đi kèm với cơ chế hậu kiểm rõ ràng từ các bộ, ngành Trung ương. Theo ông Hà Sỹ Đồng, không thể nói phân cấp mà không đi kèm với phân quyền và đặc biệt là cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm. Cần có cơ chế khuyến khích rõ ràng để bảo vệ cán bộ. Nếu họ làm vì mục đích chung, vì cộng đồng và phục vụ người dân, doanh nghiệp thì không nên bắt bẻ những lỗi về quy trình, thủ tục nhỏ lẻ, không có lợi ích cá nhân.
Thứ ba, nên thiết lập Cổng thông tin pháp lý quốc gia chuyên theo dõi, cập nhật và giải đáp các vướng mắc pháp lý cụ thể trong quá trình thực hiện Nghị quyết 68. Cổng thông tin này sẽ là nơi để doanh nghiệp và địa phương có thể đối thoại trực tiếp với trung ương, hỏi những vướng mắc cụ thể.
Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng nêu ví dụ: Nếu đang chuẩn bị cấp chủ trương đầu tư trong thời gian lựa chọn nhà đầu tư một dự án, nhưng theo Nghị định 115 yêu cầu phải có quy hoạch chi tiết hoặc quy hoạch 1/500, 1/2000 trong khi thủ tục này mất nhiều thời gian. Liệu có thể cho phép lựa chọn nhà đầu tư và cấp chủ trương đầu tư đồng thời, kèm theo yêu cầu chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục quy hoạch chi tiết sau không? Nếu chờ làm xong thủ tục này thì sẽ mất rất nhiều thời gian. Một cổng thông tin như vậy sẽ giúp giải đáp nhanh chóng các tình huống cụ thể, thay vì chỉ nhận được câu trả lời chung chung “đề nghị quý địa phương giải quyết theo đúng quy định của pháp luật”.
“Cuối cùng, điều quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người. Nếu cán bộ của chúng ta không thay đổi tư duy từ quản lý sang phục vụ, thì dù cơ chế có tốt đến đâu cũng sẽ bị trì trệ ở khâu thực thi. Do đó, cải cách thể chế phải song hành với cải cách công vụ và đổi mới tư duy hành chính của đội ngũ cán bộ, công chức từ trung ương đến địa phương”, ông Hà Sỹ Đồng nhấn mạnh.
Nghị quyết 68 mới chỉ là những quyết định mang tính chiến lược, cần được cụ thể hóa bằng kế hoạch triển khai ngay tại từng địa phương. Chính phủ cần đi đến từng địa phương để họ có những quy định riêng, phù hợp với thực tiễn, nhằm thực hiện các dự án. Nếu chỉ đưa ra các chiến lược ở tầm cao mà không có kế hoạch cụ thể đến từng địa phương, mọi chuyện có lẽ vẫn sẽ "dậm chân tại chỗ".
TS. Nguyễn Trí Hiếu - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Thị trường Tài chính và Bất động sản Toàn Cầu
.png)
Trao đổi với phóng viên NB&CL, TS. Nguyễn Sĩ Dũng – Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đánh giá, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã trực diện thừa nhận thực trạng khó khăn của doanh nghiệp tư nhân hiện tại và đưa ra định hướng cải cách thể chế rất quan trọng, tập trung vào ba hướng đi lớn nhằm tháo gỡ nút thắt: sở hữu – tiếp cận – sử dụng đất.
Đầu tiên là minh bạch hóa và thị trường hóa có kiểm soát trong phân bổ đất đai. Nghị quyết xác định rõ: cần “bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng, công khai, minh bạch đối với các nguồn lực phát triển, nhất là đất đai”. Theo ông Nguyễn Sĩ Dũng, điều này hàm nghĩa phải giảm dần cơ chế hành chính “xin – cho”, thay vào đó là các cơ chế thị trường – như đấu giá đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất – được tổ chức chuyên nghiệp, minh bạch, có giám sát độc lập.
Thứ hai, cải cách quy hoạch và thủ tục pháp lý liên quan đến đất đai. TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội phải đồng bộ, có tầm nhìn và ít thay đổi tuỳ tiện, để doanh nghiệp có thể dự báo và lên kế hoạch dài hạn. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất – đặc biệt cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, bảo vệ quyền tài sản và quyền sử dụng đất hợp pháp. Theo ông Nguyễn Sĩ Dũng, Nghị quyết 68 nhấn mạnh đến việc hoàn thiện pháp luật về tài sản và quyền tài sản – trong đó, quyền sử dụng đất là một cấu phần quan trọng. Chỉ khi doanh nghiệp yên tâm rằng quyền của họ được pháp luật bảo vệ như một loại “tài sản kinh doanh”, thì họ mới dám đầu tư lâu dài, đổi mới công nghệ và mở rộng quy mô.

Cũng theo Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Nghị quyết 68 không chỉ nhìn thấy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, mà còn chỉ ra điều kiện thể chế để động lực ấy được giải phóng và vận hành hiệu quả. Trong đó, tháo gỡ nút thắt đất đai không phải là việc phụ trợ, mà chính là điều kiện tiên quyết – là "hệ điều hành" của cả môi trường kinh doanh.
Muốn Nghị quyết 68 không chỉ là định hướng chính trị, mà thực sự trở thành chuyển động thực tế, TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, cần đồng thời hành động trên ba trục chính:
Thứ nhất, đồng bộ hóa thể chế – luật chuyên ngành phải “giao thoa” chứ không “va đập”. Phải có một cơ chế rà soát, thống nhất và lược bỏ những điểm chồng chéo giữa Luật Đất đai với các luật về đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường, quy hoạch... Không thể để doanh nghiệp vừa được giao đất theo luật này, lại bị “ách lại” bởi một quy định mơ hồ trong luật khác.
Thứ hai, cải cách tổ chức thực thi – tăng quyền, tăng năng lực và giảm rủi ro pháp lý cho người quyết định. Cụ thể, cần thiết kế các cơ chế “bảo vệ người dám làm”, nhất là ở cấp cơ sở. Khi thể chế vẫn mơ hồ, mà trách nhiệm thì cá nhân hóa đến từng chữ ký, không ai muốn mạo hiểm. Cần số hóa quy trình, xác lập chuẩn mực ra quyết định và có thiết chế phản biện độc lập đi kèm.
Thứ ba, đưa tinh thần của Nghị quyết 68 vào các chương trình hành động cụ thể – đo được, giám sát được. Định hướng chính trị chỉ có giá trị khi nó được “thể chế hóa” thành các mục tiêu đo lường được: bao nhiêu diện tích đất được giải phóng cho khu vực tư nhân? Bao nhiêu thủ tục được cắt giảm? Bao nhiêu địa phương chủ động giao đất qua cơ chế thị trường minh bạch?... Nếu không có những con số này, Nghị quyết rất dễ bị “loãng” trong bộ máy.
“Tóm lại, để khu vực tư nhân thực sự là một động lực phát triển, thì thể chế phải trở thành động lực dẫn dắt chứ không phải là vật cản. Và để làm được điều đó, chúng ta không chỉ cần quyết tâm chính trị, mà cần năng lực thiết kế chính sách, cải cách tổ chức thực thi, và cả sự đồng lòng của hệ thống công quyền các cấp”, ông Dũng nêu rõ.

Kỳ vọng Việt Nam sẽ hình thành một tầng lớp doanh nhân dân tộc mạnh mẽ, có năng lực cạnh tranh toàn cầu và có ý thức phụng sự quốc gia; kinh tế tư nhân không chỉ là một thành phần, mà trở thành một động lực dẫn dắt tăng trưởng, tạo việc làm, đổi mới công nghệ và đóng góp vào an sinh xã hội một cách chủ động, có trách nhiệm, TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng: “Nghị quyết 68 phải tạo ra một sự chuyển động thực chất trong cả hệ thống thể chế và văn hóa quản trị quốc gia. Không chỉ là cải thiện môi trường kinh doanh, mà là thiết lập lại quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp – từ quản lý sang kiến tạo, từ nghi ngờ sang tin cậy, từ kiểm soát sang đồng hành”.
Đồng thời, Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cũng tin tưởng: “Yếu tố quyết định để Nghị quyết 68 thành công thật sự chứ không chỉ “đúng về tinh thần nhưng yếu về hành động” – chính là năng lực thực thi và chuyển hóa của bộ máy nhà nước. Từ Trung ương đến địa phương, từ chính sách đến cán bộ thực thi, tất cả đều phải chia sẻ cùng một tinh thần cải cách: dám làm, dám thay đổi và dám chịu trách nhiệm vì sự phát triển chung”.
Đại biểu Quốc hội, TS. Nguyễn Văn Thân – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Với khoản thu bổ sung 5,4%/năm trong Nghị định 103/2024/NĐ-CP của quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của Chính phủ - đây được coi là “phạt chậm nộp tiền sử dụng đất” đối với những dự án chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính. Điều này vô lý.
Nhiều doanh nghiệp chưa hoàn tất nghĩa vụ tài chính không phải do họ chậm trễ, mà vì cơ quan Nhà nước chưa định giá đất xong. Vậy mà vẫn bị tính lãi là không công bằng.
Không chỉ thiệt hại về tài chính, các doanh nghiệp còn bị “kẹt” do Luật Đất đai 2024 quy định rằng dự án chưa nộp đủ tiền sử dụng đất thì không được triển khai tiếp, không được mở bán sản phẩm. Họ không thể huy động vốn, không thể quay vòng, dẫn đến tắc nghẽn cả chuỗi dự án.
Đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ rà soát, sửa đổi những quy định bất hợp lý, đặc biệt là với doanh nghiệp nhỏ và vừa – những đối tượng dễ bị tổn thương và đang cần khơi thông nguồn lực để phát triển.
GS.TS Hoàng Văn Cường - Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội
.jpg)
Các nguyên nhân chính đều bắt nguồn từ những vướng mắc trong thể chế và chính sách. Có những dự án đã triển khai một phần nhưng phải dừng vì quy hoạch thay đổi, luật thay đổi, hoặc chính quyền trước đây cho làm khi chưa đầy đủ thủ tục. Nhiều dự án được thực hiện theo kiểu “vừa chạy vừa xếp hàng” – nghĩa là chưa tuân thủ đầy đủ quy trình pháp lý, nhưng được chấp thuận theo tư duy “làm trước, hoàn thiện sau”.
Một ví dụ điển hình là việc giao đất không qua đấu thầu. Cán bộ làm sai thì phải bị xử lý. Nhưng nếu giờ bắt nhà đầu tư đấu thầu lại từ đầu thì không khả thi, vì họ đã đầu tư rồi. Phải có cách xử lý linh hoạt – cho phép tiếp tục triển khai với điều kiện tính toán lại giá đất, định giá lại để đảm bảo công bằng.
Đại biểu kiến nghị rà soát lại một số quy định không còn phù hợp về đấu thầu, định giá đất cũng như tháo gỡ cho các địa phương trong việc giải quyết những dự án mang lại giá trị cho xã hội mà không gây thiệt hại thì cho tiếp tục triển khai và cởi mở hơn thay vì áp dụng quy định một cách rập khuôn.
LỜI KẾT
Khởi đầu từ nhận thức đúng đắn và dũng cảm của Đảng về những “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, đặc biệt là trong tiếp cận đất đai và thể chế phân bổ nguồn lực, Nghị quyết 68-NQ/TW đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy và hành động của Đảng đối với kinh tế tư nhân, khi lần đầu tiên các “điểm nghẽn” cụ thể về đất đai, thể chế, thủ tục... được nhận diện rõ và yêu cầu tháo gỡ một cách thực chất. Không dừng lại ở đó, Nghị quyết đã chỉ ra những giải pháp cụ thể để khơi thông các nguồn lực đang bị lãng phí, sử dụng chưa hiệu quả – trong đó có đất công, tài sản công, dự án chậm tiến độ, đất vướng tranh chấp kéo dài. “Cởi trói” cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận những nguồn lực đó chính là bước đầu tiên để mở ra một chu kỳ phát triển mới cho toàn bộ nền kinh tế.
Qua loạt bài chuyên đề, có thể thấy rõ rằng việc tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, pháp luật – từ quy hoạch đất đai, định giá tài sản công, thủ tục đầu tư, đến phân cấp, phân quyền – không chỉ giúp khơi thông hàng trăm nghìn hécta đất và hàng triệu tỷ đồng đang bị “đóng băng”, mà còn giải phóng tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong xã hội. Khi rào cản được dỡ bỏ, tư nhân sẽ có thêm cơ hội để phát triển bình đẳng, đóng góp vào tăng trưởng, tạo việc làm và nâng cao năng suất toàn nền kinh tế.
Giá trị thực tiễn lớn nhất của Nghị quyết 68-NQ/TW nằm ở tầm nhìn dài hạn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Không chỉ nhằm giải quyết các “điểm nghẽn” trước mắt, Nghị quyết đã xác lập những mục tiêu đầy khát vọng: đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả; đến năm 2045 – cột mốc trăm năm thành lập nước – con số đó phải đạt ít nhất 3 triệu doanh nghiệp, đưa Việt Nam vươn lên trở thành nền kinh tế phát triển có thu nhập cao.
“Thoát khỏi điểm nghẽn của điểm nghẽn” không chỉ là thông điệp, mà là nhiệm vụ xuyên suốt. Khi đất đai không còn bị lãng phí, thể chế không còn cản trở, doanh nghiệp tư nhân không còn bị trói buộc, đó cũng là lúc đất nước mở được những cánh cửa lớn cho phát triển. Nghị quyết 68 đã đặt nền móng. Phần còn lại phụ thuộc vào sự nhập cuộc đồng bộ, thực chất của cả hệ thống chính trị – để doanh nghiệp tư nhân thực sự được tiếp sức và cả quốc gia cùng vươn mình.
