Môi trường

Đốt bỏ phụ phẩm: Việt Nam đang lãng phí “mỏ vàng” than sinh học

Phúc Ân 01/08/2025 06:40

(CLO) Hàng chục triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp đang bị đốt bỏ mỗi năm, trong khi đây lại là nguồn tài nguyên quý giá để sản xuất than sinh học – một sản phẩm có thể cải tạo đất, giảm phát thải và mang về hàng tỉ USD từ thị trường carbon toàn cầu.

Than sinh học (biochar) là một loại vật liệu carbon thu được bằng cách đốt phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, trấu, vỏ cà phê, lõi ngô... trong điều kiện yếm khí (ít hoặc không có oxy). Quá trình này gọi là nhiệt phân, tạo ra một loại than giàu carbon, có cấu trúc xốp và rất bền trong đất.

Than sinh học có nhiều lợi ích như cải thiện cấu trúc và độ màu mỡ của đất, giúp giữ ẩm, giữ dinh dưỡng tốt hơn; tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm thất thoát phân bón ra môi trường; giảm phát thải khí nhà kính (đặc biệt là CO₂, CH₄ và N₂O) nhờ khả năng cố định carbon trong đất có thể lên đến hàng trăm năm.

z6859758690345_7a33259c5e7ccf1e3b8489eaffd4376e.jpg
Cần định vị than sinh học là đầu vào quan trọng cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp (ảnh minh họa).

Theo ước tính của Viện Môi trường Nông nghiệp năm 2024, Việt Nam có hơn 93,61 triệu tấn phụ phẩm trồng trọt nhưng mới chỉ thu gom và sử dụng hơn 52% trong số này. Trong đó, các phụ phẩm chủ yếu gồm rơm rạ (35,1 triệu tấn/năm), trấu (8,9 triệu tấn/năm), vỏ cà phê (1,4 triệu tấn/năm), lõi ngô (0,8 triệu tấn/năm)… Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào, phân bố rộng khắp ở nhiều tỉnh thành trên cả nước và có tiềm năng lớn để sản xuất than sinh học.

Còn theo báo cáo đánh giá của Sáng kiến than sinh học Hoa Kỳ (USBI), thị trường than sinh học toàn cầu năm 2023 đạt 600 triệu USD và dự kiến tăng lên 3,3 tỷ USD vào 2025. Ngoài giá trị sản phẩm, than sinh học còn mở ra cơ hội thu lợi từ tín chỉ carbon với giá giao dịch có thể lên đến 200 USD/tín chỉ.

Tại Việt Nam, theo TS. Đỗ Thị Hương – Cán bộ Nông nghiệp bền vững, Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), phần lớn doanh nghiệp vẫn coi than sinh học là sản phẩm phụ, giá trị thấp. Giá bán dao động từ 2–12 triệu đồng/tấn, tổng giá trị thị trường trong nước chỉ khoảng 1.200 tỉ đồng/năm. Song tiềm năng phát triển than sinh học còn rất lớn, nhất là khi gắn với nông nghiệp hữu cơ và tài chính carbon.

Hiện nay, việc sản xuất và phát triển than sinh học ở Việt Nam dù đã được quy định trong các quy định pháp luật, chiến lược và kế hoạch khác nhau liên quan đến nông nghiệp bền vững, biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên vẫn cần có khung pháp lý cụ thể, tiêu chuẩn chất lượng hoặc cơ chế chứng nhận thị trường phát triển và hoàn thiện hơn.

Để hiện thực hóa tiềm năng từ “mỏ vàng” than sinh học, TS. Đỗ Thị Hương cho rằng Việt Nam cần chủ động tạo nền tảng pháp lý và môi trường đầu tư thuận lợi. Trước hết, cần ban hành các quy định rõ ràng liên quan đến sản xuất, ứng dụng than sinh học, đồng thời xây dựng hệ thống MRV (đo lường – báo cáo – thẩm định) và thiết lập cơ chế tín chỉ carbon. Điều này giúp tích hợp than sinh học vào các mô hình canh tác nông nghiệp phát thải thấp, góp phần hạn chế đốt đồng và cải tạo đất hiệu quả.

Kinh nghiệm từ Hàn Quốc là một ví dụ điển hình. Khi Chính phủ Hàn Quốc chính thức công nhận than sinh học là một loại phân bón và có chính sách trợ cấp phù hợp, thị trường trong nước đã nhanh chóng khởi sắc, tạo động lực lớn cho các bên tham gia chuỗi giá trị.

Tại Việt Nam, việc triển khai các mô hình thí điểm nên được ưu tiên tại những khu vực có nguồn phụ phẩm nông nghiệp dồi dào và hạ tầng phù hợp. Các mô hình cần kết hợp công nghệ nhiệt phân quy mô nhỏ, mô hình hợp tác, hướng tới chuỗi sản xuất tuần hoàn. Sự đồng hành của nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ giúp kiểm chứng tính khả thi về mặt thị trường, huy động nguồn lực tài chính, đồng thời đúc rút bài học nhằm giảm thiểu rủi ro khi nhân rộng mô hình.

Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường và xây dựng hệ sinh thái cho than sinh học cũng đóng vai trò then chốt. Cần định vị sản phẩm này là đầu vào chiến lược cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp.

Việc chứng minh được lợi ích kinh tế từ cải tạo đất, tăng năng suất đến thu nhập từ tín chỉ carbon –sẽ là đòn bẩy để ứng dụng than sinh học rộng rãi trong cộng đồng nông dân và doanh nghiệp nhỏ, góp phần tạo ra giá trị kép, kinh tế - môi trường cho nông nghiệp Việt Nam.

Phúc Ân