Lộ trình xây dựng 2 đại học tinh hoa đẳng cấp quốc tế của Việt Nam
(CLO) Theo dự thảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), Việt Nam sẽ đầu tư mạnh và tạo cơ chế đặc thù để phát triển ít nhất 2 đại học tinh hoa đẳng cấp quốc tế vào năm 2030.
Thông tin được ông Trần Nam Tú, Phó cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin, Bộ GD&ĐT chia sẻ tại dự thảo đề án phát triển các trường đại học trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo đến năm 2035.
Các tiêu chí đánh giá gồm: Năng lực công bố khoa học; Đội ngũ giảng viên và nhà nghiên cứu có trình độ, chất lượng; Năng lực nhận tài trợ và ngân sách nghiên cứu; Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; Cơ sở hạ tầng và thiết bị nghiên cứu; Hợp tác quốc tế; Tác động xã hội.
Theo ông Tú, mục tiêu đến năm 2030, Bộ GD&ĐT sẽ lựa chọn, đầu tư, phát triển 15-20 cơ sở giáo dục đại học công lập có năng lực, uy tín, thế mạnh hàng đầu về nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ ưu tiên của công nghiệp 4.0, công nghiệp cao, công nghệ chiến lược và các lĩnh vực khoa học mũi nhọn đóng vai trò hạt nhân, nòng cốt trong mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học tương ứng.

Trong đó, đầu tư mạnh và có cơ chế đặc thù, vượt trội để phát triển ít nhất 2 đại học tinh hoa theo mô hình đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế.
Đại diện Bộ GD&ĐT chỉ rõ: Các cơ sở giáo dục đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh có số lượng công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng bình quân 12% mỗi năm, số lượng bằng sáng chế được đăng ký và cấp bằng tăng 20-22% mỗi năm.
Hình thành ít nhất 50 nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó có tối thiểu 30 nhóm đạt trình độ quốc tế trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược, công nghệ cao và các lĩnh vực khoa học mũi nhọn khác.
Phấn đấu mỗi cơ sở giáo dục đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh thu hút được ít nhất 20 chuyên gia, nhà khoa học giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia nghiên cứu khoa học, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam.
Phân tích định nghĩa "đại học tinh hoa", ông Tú phân tích: "Đại học tinh hoa là một "nấc" cao hơn, vượt trội so với các cơ sở giáo dục đại học nghiên cứu mạnh, tiêu chí cụ thể sẽ được ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu".

Bộ GD&ĐT cũng đặt ra lộ trình đến năm 2035 trở đi, cả nước phát triển 25-30 trường đại học công lập có thế mạnh nghiên cứu, ứng dụng, gồm 3-5 đại học tinh hoa.
Số lượng công bố quốc tế trong giai đoạn này cần tăng 15% mỗi năm, số bằng sáng chế tăng 23-25%. Cả nước có ít nhất 70 nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó 50 nhóm đạt trình độ quốc tế. Mỗi trường thu hút được ít nhất 30 chuyên gia, nhà khoa học giỏi người Việt hoặc nước ngoài về giảng dạy.
"Đề án phát triển đại học nghiên cứu mạnh nhằm đẩy nhanh, mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học gắn với ứng dụng, đào tạo nhân lực, phục vụ cho Nghị quyết 57", ông Tú nhấn mạnh.
Để lộ trình đạt được kết quả, Bộ đề ra 4 nhóm giải pháp chính: Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách phát triển trường đại học trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh; Nâng cao năng lực nghiên cứu, kết nối cho các cơ sở giáo dục đại học; Hỗ trợ triển khai các phương thức hợp tác Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp; Tăng cường hoạt động hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục đại học Việt Nam với các cơ sở uy tín ở nước ngoài.

Tháng 2 vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt Đề án số 347 với mục tiêu phát triển hệ thống trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng, thông qua việc đầu tư trọng tâm, trọng điểm cho một số cơ sở giáo dục đại học có thế mạnh.
Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lựa chọn 13 trường đại học dẫn dắt việc xây dựng các trung tâm và mạng lưới đào tạo xuất sắc, tập trung vào 9 lĩnh vực công nghệ mũi nhọn.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mỗi năm, Việt Nam có khoảng 18.000 công bố khoa học quốc tế, trong đó phần lớn đến từ các viện nghiên cứu và trường đại học. Năm 2024, Đại học Quốc gia TP.HCM dẫn đầu với gần 3.170 bài báo, tiếp theo là Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với khoảng 1.500–1.600 bài/năm.
PGS.TS Đinh Đoàn Long, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, đề án này sẽ tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy nghiên cứu phát triển, đồng thời “giải phóng” tiềm lực khoa học công nghệ vốn đang tiềm ẩn trong hệ thống đại học – nơi hội tụ đội ngũ trí thức và cơ sở vật chất nghiên cứu hàng đầu.
Theo ông Long, gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển giao tri thức trong các đại học không chỉ là xu hướng mà là “tất yếu khách quan”. Ông nhấn mạnh: “Nghiên cứu khoa học không phải là hành động mang tính phong trào, không nên hô hào khẩu hiệu. Nó phải là việc làm tự nhiên như ăn cơm, uống nước hằng ngày”.

Tuy nhiên, để biến điều “đương nhiên” đó thành hiện thực, theo ông Long, cần một cuộc thay đổi tư duy sâu rộng trong toàn hệ thống giáo dục đại học.
Chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, ông kể lại quá trình đồng hành cùng các học sinh Việt Nam tham dự Olympic Sinh học Quốc tế từ năm 2004: “Chỉ cách đây 8 năm, chúng ta còn loay hoay tìm cách giành huy chương vàng. Nhưng gần đây, huy chương vàng ở các môn Hoá học và Sinh học đã đến đều đặn. Ta phát hiện ra rằng cả thế giới làm một cách, còn ta làm một cách khác”.
Điều này, theo ông Long, chứng minh người Việt Nam không thua kém về tiềm năng mà chủ yếu là cần thay đổi cách tiếp cận và tư duy chiến lược.
Ở góc nhìn khác, GS.TS Lê Văn Cảnh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ TP Hồ Chí Minh (HUTECH) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định rõ trụ cột phát triển, sản phẩm tiêu biểu và định hướng thương mại hóa trong hệ sinh thái nghiên cứu. Đặc biệt, ông đề xuất lấy sinh viên làm trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo: “Sự sáng tạo trong giới sinh viên là rất lớn và cần được khơi dậy, dẫn dắt đúng cách”.

Về phía cơ quan quản lý, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc cho biết, sau khi Nghị quyết 57 ra đời, nhiều chương trình, đề án lớn đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là những căn cứ quan trọng để phát triển nghiên cứu khoa học gắn với ứng dụng thực tiễn và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong đó, Đề án phát triển các trường đại học trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh vừa là cơ hội lớn, vừa đặt ra những yêu cầu mới, thách thức lớn về đổi mới mô hình, cơ chế vận hành và tư duy trong toàn hệ thống giáo dục đại học.