Thị trường - Doanh nghiệp

Nhu cầu lớn, dư địa rộng nhưng cho thuê tài chính đang bị “bỏ quên”

Hà Linh 14/08/2025 05:43

(CLO) Bỏ quên – Quá nhỏ - Thức tỉnh để phát triển là ba cụm từ mà TS.Phạm Xuân Hòe – Tổng thư ký Hiệp hội CTTC Việt Nam dùng để nói tới Chính sách về hoạt động Cho thuê tài chính (CTTC) tại Việt Nam.

Cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung – dài hạn đặc thù, thay vì phải mua tài sản sản xuất như máy móc, thiết bị thì có thể thuê. Với hình thức này doanh nghiệp không phải đầu tư toàn bộ vốn ban đầu, hoặc phải có tài sản thế chấp để vay vốn.

Ở Châu Âu,hơn 40% các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng hình thức CTTC để cấp vốn cho các khoản đầu tư kinh doanh, ông Jinchang Lai, Chuyên gia trưởng và Trưởng Nhóm Phát triển Cơ sở Hạ tầng Tài chính, Bộ phận Tư vấn các Định chế Tài chính, Châu Á & Thái Bình Dương, IFC; Đại diện (Sherpa) của Mạng lưới Phát triển Hạ tầng Tài chính APEC-APFF (FIDN).

1(2).jpg
Trên thị trường đã xuất hiện nhiều công ty cho thuê tài chính. Ảnh: Vietnambiz

Tại Nhật Bản, có hơn 90% các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ CTTC để đầu tư máy móc thiết bị. Tỷ lệ đi thuê tài chính tới 70-80% của SME ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) đã minh chứng cho lợi thế này của CTTC.

“Việt Nam đang có gần 1 triệu DN đang hoạt động, nếu chỉ có 10% trong số họ sử dụng CTTC, số lượng khách hàng đang hoạt động sẽ phải rơi vào khoảng 100.000 khách hàng. Nhưng đến giữa năm 2025, ngành CTTC Việt Nam có khoảng 3.500 khách hàng đang hoạt động và khoảng 10.000 hợp đồng cho thuê. Con số này quá nhỏ trong khi Việt Nam đang cần vốn, DN Việt Nam rất cần vốn”, theo Jinchang Lai.

Ông Nguyễn Thiều Sơn, Tổng giám đốc Công ty Cho thuê Tài chính TNHH BIDV – SuMi TRUST (BSL cho hay: Theo khảo sát riêng của BSL năm 2023, chưa đến 10% doanh nghiệp được hỏi có câu trả lời là đã từng hoặc đang sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính.

Theo vị chuyên gia này, nếu tính theo quy mô dân số Việt Nam, số lượng giao dịch CTTC hàng năm sẽ đạt trên 600.000. Nếu hoạt động CTTC tiêu dùng phát triển đáng kể, con số này có thể cao hơn.

Nhưng ở Việt Nam, dù hoạt động CTTC đã xuất hiện từ hơn 20 năm trước, nhưng đến nay, cả nước mới có 11 công ty CTTC được cấp phép thì một công ty đang dừng hoạt động để tái cơ cấu, 2 công ty đã phá sản. Rõ ràng kênh CTTC ở Việt Nam đang bị bỏ ngỏ.

“Lợi thế của CTTC (CTTC) là nó có thể chấp nhận rủi ro cao hơn so chuẩn NHTM, thâm nhập vô cùng tốt tới SMEs, hộ kinh doanh với tất cả máy móc thiết bị, phương tiện vận tải… và cả một số loại tài sản vô hình tài sản số, phần mềm, cơ sở hạ tầng công nghệ, bản quyền trí tuệ, giấy phép, quyền khai thác …”, TS.Phạm Xuân Hòe cho hay.

Như vậy nhu cầu lớn, dư địa phát triển thị trường CTTC đang rất rộng. Nhưng như ông Hòe nói, CTTC đang bị “Bỏ quên” hay “chưa biết đến”.

Mặc dù trong Luật các TCTD 2010 nay là Luật các TCTD 2024, các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hướng dẫn dưới luật đã bước đầu tạo ra môi trường pháp lý để CTTC có đất dụng võ. Nhưng ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác lại QPPL khác thì CTTC bị “quên lãng”, bị thẳng thừng từ chối, bị bỏ sót…

“Quá nhỏ so với tiềm năng” là cụm từ mô tả đầy đủ về kênh CTTC ở Việt Nam, các con số thống kê cho thấy rõ điều này, TS.Phạm Xuân Hòe nói. Theo kinh nghiệm từ chuyên gia IFC số công ty CTTC ở Việt Nam cần có khoảng 470 công ty, với mức vốn pháp định yêu cầu hiện tại tối thiểu 150 tỷ đối với 01 cty CTTC. Điều này thực sự không khó cho việc ra đời nhiều Công ty CTTC để cung ứng vốn trung dài hạn đối với SMEs và hộ kinh doanh, ông Hòe khẳng định. Nhưng số công ty CTTC hiện nay chỉ bằng 1,5% so nhu cầu.

CTTC là hình thức cấp tín dụng trung dài hạn thông qua tài sản, nhưng nhiều năm qua số dư nợ CTTC và phần nhỏ là cho vay vốn lưu động của các công ty CTTC trên thị trường Việt Nam ước tính số liệu của toàn ngành CTTC cũng chỉ khoảng 47 ngàn tỷ đồng, chỉ chiếm 0,28% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế.

“Tỷ lệ này chưa san sẻ gánh nặng vốn trung dài hạn của NHTM (đến cuối thắng 7/2027 tỷ lệ cho vay vốn trung dài hạn của hệ thống ngân hàng khoảng 46% tổng dư nợ); CTTC chưa san sẻ gánh nặng cung ứng vốn với ngân hàng thương mại”, ông Hòe lưu ý.

Tỷ lệ thâm nhập vào doanh nghiệp đối với loại hình dịch vụ CTTC ở Việt Nam là quá nhỏ bé, với số lượng hợp đồng cho thuê ước tình 15 ngàn hợp đồng. Giả định rằng mỗi khách hàng là một hợp đồng thì tỷ lệ này trên gần 1 triệu DN mới chỉ đạt 1,5%, nếu tính thêm cả 5,2 triệu hộ kinh doanh có nhu cầu thuê tài chính còn số này là rất nhỏ bé so tiềm năng của thị trường. Tỷ lệ thâm nhập của Mỹ là 22%.

TS.Phạm Xuân Hòe nói đến cụm từ “Thức tỉnh để phát triển” và cho đây là cụm từ mang lại nhiều cảm xúc hạnh phúc cho người làm trong ngành CTTC” ông Hòe nói. Ông Hòe nói vậy vì Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triến kinh tế tư nhân, mở ra cơ hội chưa từng có đối với các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi, trong đó có CTTC.

“Ở góc độ của những người làm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chúng tôi cho rằngNghị quyết 68 là nghị quyết toàn diện, đầy đủ, chi tiết, mang tầm chiến lược mở ra thời kỳ mới chuyển mình của dân tộc trong phát triển kinh tế, mở ra các kênh về tài chính giúp kinh tế tư nhân, nhất là SMEs, hộ kinh doanh”, Tổng thư ký của Hiệp hội CTTC cho hay.

Từ góc nhìn của chuyên gia quốc tế, ông Lai cũng nhấn mạnh: Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị ngày 04/5/2025 đã đề ra các yêu cầu cụ thể (i) sửa đổi khung pháp lý về hoạt động của công ty CTTC; và (ii) xem xét cách thức đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân • Nghị quyết cũng yêu cầu rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động của các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi (NDTL) để đa dạng hoá nguồn cung tín dụng cho doanh nghiệp.

Nghị quyết của Đảng đã định hướng rất rõ, CTTC đang cần quá trình cụ thể hóa bằng chính sách pháp luật và hành động . “Chúng tôi kỳ vọng kênh CTTC đã được biết đến, được thức tỉnh và sẽ phát triển vượt bậc trong thời gian tới”, ông Hòe nói. Còn thực tại hoạt động CTTC cũng rất gập ghềnh khó khăn chủ yếu xuất phát từ khung pháp lý, cơ chế vận hành và điều kiện thị trường.
Hệ thống pháp lý và các quy định hướng dẫn hiện được cho là vẫn còn thiếu sự đồng bộ, chưa phù hợp phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai hoạt động CTTC. Các công ty CTTC vẫn bị điều chỉnh như ngân hàng, dù bản chất hoạt động khác biệt. Khung pháp lý quy còn hạn chế như đã đề cập; cùng tư duy hoạt động vẫn còn nặng tính “ngân hàng hoá”. Quy định công ty CTTC không được phát hành trái phiếu công chúng...cũng làm hạn chế các nguồn huy động của các công ty.

“Thiếu nền tảng pháp lý vững chắc, ngành CTTC không thể phát triển lớn mạnh”, ông Jingchang Lai khẳng định.

Theo các chuyên gia cần tạo động lực mới để phát triển cho thuê tài chính tại Việt Nam và cần tuyên truyền bài bản về hoạt động CTTC. Đồng thời cần sớm xây dựng khung pháp lý riêng cho hoạt động CTTC. Bời CTTC cần một khuôn khổ pháp lý riêng biệt và đặc thù. Đồng thời hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Và sớm ban hành các chính sách triển khai các sản phẩm mới theo tinh thần của Nghị quyết 68. Ông Jingchang Lai còn cho rằng Việt Nam nên sớm ban hành một đạo luật độc lập về CTTC.

Hà Linh