Thị trường - Doanh nghiệp

Giá lúa gạo hôm nay 15/8: Thị trường ổn định, Việt Nam vượt Thái Lan giữ vị trí số 2 thế giới

PV 15/08/2025 15:07

Giá lúa gạo hôm nay ngày 15/8 ổn định tại ĐBSCL, giao dịch trầm lắng cuối vụ; xuất khẩu giữ đà, giúp Việt Nam vững ngôi số 2 thế giới sau Ấn Độ.

Giá lúa gạo hôm nay 15/8: Giá gạo ổn định

Ngày 15/8, thị trường lúa gạo trong nước tiếp tục duy trì sự ổn định. Các hoạt động giao dịch tại nhiều tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra chậm do nguồn cung cuối vụ giảm mạnh. Ở thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam vẫn giữ nguyên so với phiên trước, góp phần duy trì sức cạnh tranh với các nguồn cung lớn trong khu vực.

Tại An Giang, giá lúa tươi IR50404 dao động 5.700 – 5.900 đồng/kg, Nàng Hoa 9 và OM18 ở mức 6.000 – 6.200 đồng/kg, Đài Thơm 8 tươi 6.100 – 6.200 đồng/kg, OM5451 tươi quanh 5.900 – 6.000 đồng/kg, còn OM308 giữ mức 5.700 – 5.900 đồng/kg. Nguồn cung tại nhiều địa phương giảm rõ rệt, hoạt động thu mua diễn ra thưa thớt.

Giá lúa gạo hôm nay 158 Thị trường trong nước và xuất khẩu cùng vững giá
Giá lúa gạo hôm nay 15/8 ổn định tại ĐBSCL

Tại Tây Ninh, lượng lúa Hè Thu chưa cọc không nhiều, giao dịch chậm, giá ổn định. Ở Cần Thơ, lúa Thu Đông được mua bán dè dặt, nhiều thương lái chờ theo dõi diễn biến thị trường. Đồng Tháp ghi nhận một số loại lúa thơm giảm nhẹ nhưng nhìn chung giá vẫn giữ mốc ổn định. An Giang, Cà Mau và các vùng trồng lúa khác cũng trong tình trạng lượng hàng ít, thu mua mới diễn ra cầm chừng.

Giá gạo nguyên liệu tại An Giang tiếp tục ổn định: IR504 ở mức 8.450 – 8.550 đồng/kg, CL555 8.650 – 8.750 đồng/kg, OM380 8.300 – 8.400 đồng/kg, 5451 từ 9.500 – 9.650 đồng/kg, OM18 đạt 9.600 – 9.700 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM380 giao dịch 8.800 – 9.000 đồng/kg, IR504 ở mức 9.500 – 9.700 đồng/kg.

Với nhóm phụ phẩm, giá dao động 7.500 – 9.000 đồng/kg. Tấm thơm OM504 giữ mức 7.500 – 7.700 đồng/kg, cám từ 8.000 – 9.000 đồng/kg, nhìn chung không biến động so với đầu tuần.

Trên thị trường gạo, tại các chợ lẻ giá gạo đứng giá, ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ so với ngày hôm qua. Hôm nay, gạo Nàng Nhen vẫn tiếp tục có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg, gạo thường dao động ở mốc 13.000 - 14.000 đồng/kg.

Giá gạo xuất khẩu Việt Nam giữ ổn định, vượt Thái Lan thành quốc gia xuất khẩu lớn thứ hai thế giới

Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam sáng 15/8 tiếp tục đi ngang so với phiên trước. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 25% tấm được chào bán ở mức 371 USD/tấn, gạo 100% tấm đạt 339 USD/tấn, còn gạo 5% tấm giữ ở mức 395 USD/tấn – cao nhất trong nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu hiện nay.

Số liệu mới từ Hiệp hội Xuất khẩu gạo Thái Lan cho thấy Việt Nam đã chính thức vượt Thái Lan để vươn lên vị trí nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai toàn cầu trong nửa đầu năm 2025. Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 4,72 triệu tấn gạo, tăng 3,5% so với cùng kỳ, trong khi Thái Lan chỉ đạt 3,73 triệu tấn, giảm tới 27,3%. Thành tích này giúp Việt Nam tạm xếp sau Ấn Độ – quốc gia dẫn đầu với 11,68 triệu tấn, tăng 36,5% so với cùng kỳ.

Bước sang tháng 7, khối lượng xuất khẩu gạo Việt Nam nâng tổng cộng 7 tháng lên 5,5 triệu tấn, mang về khoảng 2,81 tỷ USD. Tuy nhiên, giá trị giảm gần 16% so với cùng kỳ, phản ánh sức ép lớn lên giá bán dù sản lượng tăng.

Sự thay đổi thứ hạng giữa Việt Nam và Thái Lan bắt nguồn từ hai xu hướng song song. Thứ nhất, xuất khẩu gạo Thái Lan suy giảm mạnh khi nước này dự báo cả năm chỉ đạt khoảng 7,5 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với 9,94 triệu tấn của năm 2024. Thêm vào đó, căng thẳng thương mại với Mỹ khiến Washington cân nhắc áp thuế 36% đối với gạo Thái, đẩy giá bán từ khoảng 1.000 USD/tấn lên tới 1.400 – 1.500 USD/tấn, buộc nhiều khách hàng tìm đến nguồn cung có giá cạnh tranh hơn, trong đó có Việt Nam.

Ở chiều thuận lợi, Việt Nam không chỉ tận dụng khoảng trống thị phần mà còn mở rộng mạng lưới xuất khẩu sang các thị trường mới. Với giá trung bình 514 – 517 USD/tấn, gạo Việt Nam rẻ hơn đáng kể so với gạo Thái Lan, giúp tăng khả năng thâm nhập vào các khu vực ngoài thị trường truyền thống.

Philippines vẫn duy trì vai trò khách hàng lớn nhất, song lượng xuất sang Ghana tăng hơn 50%, Bờ Biển Ngà gần gấp đôi, còn Bangladesh tăng mạnh về giá trị. Sự đa dạng hóa điểm đến giúp giảm phụ thuộc vào một thị trường duy nhất, đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp nâng cao tiêu chuẩn chất lượng và truy xuất nguồn gốc để tiến sâu vào các thị trường khó tính như EU hoặc Bắc Mỹ.

Tuy vậy, cạnh tranh từ Ấn Độ vẫn là thách thức lớn. Việc quốc gia này đẩy mạnh xuất khẩu sau khi nới lỏng hạn chế đã khiến nguồn cung toàn cầu dồi dào, giá gạo giảm xuống mức thấp nhất nhiều năm. Trong bối cảnh nguồn cung dư thừa và tồn kho lớn, biên lợi nhuận của các nhà xuất khẩu, bao gồm cả Việt Nam, sẽ chịu áp lực đáng kể trong thời gian tới.

PV