Giải pháp nâng tầm dứa, chè và cây có múi hướng tới giá trị tỷ đô
(CLO) Bắc Trung Bộ đang đứng trước cơ hội lớn để nâng tầm ba cây trồng chủ lực: dứa, chè và cây ăn quả có múi nhờ lợi thế tự nhiên, tiềm năng thị trường và những giải pháp phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu giá trị tỷ đô.
Vùng Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… có sản lượng dứa, chè và cây có múi hàng năm khoảng 400.000 tấn. Đây là khu vực trọng điểm trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia, với hàng triệu hécta đất nông, lâm nghiệp và khí hậu phù hợp cho nhiều loại cây trồng giá trị cao.
Năm 2024, diện tích dứa toàn vùng đạt 6.866 ha, sản lượng ước 132.667 tấn; riêng Nghệ An chiếm hơn 25.200 tấn. Các giống phổ biến gồm Queen, Cayenne và MD2.

Cây dứa có nhiều lợi thế để phát triển tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, đặc biệt là trên những chân đất chuyển đổi từ đất lúa kém hiệu quả hoặc vùng gò đồi thiếu nước tưới. Đây là cây trồng phù hợp với điều kiện khô hạn, có thể cho thu nhập cao hơn so với lúa hay cây công nghiệp ngắn ngày. Trong đó, dứa, đặc biệt là giống MD2, được đánh giá có hiệu quả kinh tế vượt trội, có thể trồng quanh năm, chịu hạn tốt và phù hợp với xuất khẩu.
Thị trường dứa toàn cầu tăng trưởng 5-6% mỗi năm, nhất là với các sản phẩm chế biến sâu như nước ép, dứa đóng hộp. PGS.TS Lê Quốc Doanh - Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam khuyến nghị các địa phương mở rộng diện tích trồng dứa MD2 phục vụ xuất khẩu, đồng thời kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu, hạ tầng kho bãi và logistics.
Đối với cây ăn quả có múi như cam, quýt, bưởi…diện tích toàn vùng khoảng 11.500 ha, sản lượng trên 130.000 tấn. Riêng Nghệ An trồng 6.340 ha, sản lượng 97.000 tấn mỗi năm. Những loại quả này từng thế mạnh của vùng Bắc Trung Bộ, tuy nhiên đang suy giảm mạnh do ảnh hưởng của sâu bệnh, đặc biệt là bệnh Greening (vàng lá gân xanh) khiến nhiều vườn bị phá bỏ trong những năm gần đây.
TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cảnh báo tình trạng thoái hóa giống và sâu bệnh hại đang diễn biến nghiêm trọng. Chính vì vậy, cần xây dựng trung tâm giống sạch bệnh, phục tráng giống bản địa và áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến.
Mặt khác, Hội Làm vườn Việt Nam cũng đã chủ động kết nối với phía Australia - quốc gia có nhiều kinh nghiệm phòng trừ bệnh Greening để xin tài trợ một dự án kỹ thuật. Dự án sẽ hỗ trợ giống sạch bệnh và quy trình canh tác thích ứng nhằm phục hồi ngành hàng cây có múi tại Bắc Trung Bộ.
Đối với cây chè, vùng Bắc Trung Bộ có gần 10.300 ha, trong đó Nghệ An chiếm hơn 8.760 ha, sản lượng 43.150 tấn. Sản lượng lớn nhưng thực tế thu nhập trung bình từ cây chè ở Bắc Trung Bộ còn thấp. Nguyên nhân của hạn chế này là do nhiều địa phương chưa chú trọng đổi mới giống, kỹ thuật và công nghệ chế biến.
PGS.TS Nguyễn Văn Toàn – Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc cho rằng, cần thay thế dần các giống chè cũ bằng giống chất lượng cao như PH8, TRI 5.0, Hương Bắc Sơn, VN15… Đồng thời áp dụng công nghệ chế biến tinh, hướng đến thị trường cao cấp như châu Âu và Nhật Bản.
Theo các chuyên gia, để ba ngành hàng chủ lực này đạt giá trị tỷ đô, Bắc Trung Bộ cần xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, thúc đẩy chế biến sâu, ứng dụng chuyển đổi số, hoàn thiện logistics và tăng cường xúc tiến thương mại. Đặc biệt, phải đẩy mạnh liên kết “bốn nhà” gồm Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và doanh nghiệp nhằm hình thành các chuỗi giá trị bền vững, đảm bảo nông sản được quy hoạch hợp lý, gắn với thị trường và công nghệ.