Đại hội Đảng bộ Bộ Tài chính lần thứ I: Đặt mục tiêu GDP tăng 10%/năm, 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030
(CLO) Ngày 21/8, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Tài chính lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã khai mạc Phiên chính thức.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Tài chính lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra trong bối cảnh đất nước có nhiều sự kiện trọng đại và là Đại hội đầu tiên của Đảng bộ sau khi sắp xếp lại tổ chức bộ máy của Bộ theo chủ trương của Trung ương, trên cơ sở hợp nhất các cơ quan: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và một số bộ phận thuộc Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.

Những điểm sáng nổi bật trong nhiệm kỳ 2020-2025
Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, chưa từng có tiền lệ như đại dịch COVID-19, xung đột vũ trang, điều chỉnh chính sách của các nước lớn, thiên tai khốc liệt, cạnh tranh công nghệ gay gắt... tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù vậy, hu hết các chỉ tiêu trong nhiệm kỳ đã đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội các Đảng bộ đề ra, đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ chính trị quan trọng.
Cụ thể, Bộ Tài chính đã chủ động nghiên cứu, đề xuất các chính sách miễn, giảm, giãn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất khoảng 1,1 triệu tỷ đồng để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, góp phần ổn định và phục hồi nền kinh tế.
Công tác quản lý thu tiếp tục được tăng cường, kết hợp với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch của môi trường đầu tư, kinh doanh.
Tổng thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) giai đoạn 2021-2025 ước đạt gấp 1,36 lần so với thực hiện giai đoạn 2016-2020. Công tác phân bổ, sử dụng nguồn lực công được triển khai bám sát các định hướng chiến lược, đảm bảo hiệu quả sử dụng.
Bội chi NSNN bình quân giai đoạn 2021-2025 khoảng 3,4% GDP, đạt mục tiêu kế hoạch (không quá 3,7% GDP), đảm bảo nguyên tắc chỉ bội chi cho đầu tư phát triển.
Đảng ủy Bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai mạnh mẽ, quyết liệt việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, bám sát các nhiệm vụ của Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, Đề án 06 của Chính phủ; đưa Bộ Tài chính là một trong những bộ, ngành đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số và thực hiện chuyển đổi số.
Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và các chủ trương của Trung ương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, toàn ngành Tài chính đã tích cực, quyết liệt triển khai trong suốt nhiệm kỳ; đã giảm khoảng 3.600 đầu mối, tương ứng 37,7%. Triển khai kịp thời các yêu cầu về tổ chức lại đơn vị hành chính, sắp xếp mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp; củng cố tổ chức Đảng trong các đơn vị mới hợp nhất, tiếp nhận…
Tiếp tục nỗ lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu của ngành Tài chính đến năm 2030
Cục diện thế giới dự báo tiếp tục chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường. Trong nước, sau 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là nền tảng quan trọng để vươn mình trong kỷ nguyên phát triển mới.

Trên cơ sở kết quả đạt được, Đại hội sẽ thảo luận và cho ý kiến đối với mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp và xác định các đột phá chiến lược của Ngành trong nhiệm kỳ 2025-2030.
Về phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn 2026-2030 đạt 10%/năm trở lên; GDP bình quân/người đến năm 2030 đạt 8.500 USD.
Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 55%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 8,5%/năm. Tổng tích lũy tài sản khoảng 35-36% GDP; tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng khoảng 62-63% GDP.
Về ổn định kinh tế vĩ mô và lạm phát: Bội chi NSNN giai đoạn 2026-2030 bình quân khoảng 5% GDP. Tỷ lệ nợ công/GDP bình quân trên 45%. Lạm phát bình quân giai đoạn 2026-2030 khoảng 4,0-4,5%/năm.
Về huy động và phân bổ nguồn lực tài chính: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 40% GDP, trong đó tỷ lệ đầu tư công chiếm 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 120% GDP; Dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP (trong đó dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP); Thị trường chứng khoán phái sinh tăng trưởng trung bình khoảng 25%-30% mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030.
Về cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp tư nhân phấn đấu đến năm 2030, có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, đến năm 2030, có ít nhất 25 doanh nghiệp nhà nước có vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa đạt trên 1 tỷ USD, trong đó, có ít nhất 10 doanh nghiệp đạt mức trên 5 tỷ đô la Mỹ.
Đồng thời có ít nhất 30 doanh nghiệp nhà nước có doanh thu thuần trên 1 tỷ đô la Mỹ.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vốn đăng ký giai đoạn 2026-2030 khoảng 200-300 tỷ USD (40-50 tỷ USD/năm); vốn thực hiện khoảng 150-200 tỷ USD (30-40 tỷ USD/năm); tỷ lệ nội địa hóa trên 40% vào năm 2030.
Về bảo hiểm xã hội (BHXH), đến năm 2030, 60% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia BHXH; 45% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia BHTN; 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
Trên 97% dân số tham gia bảo hiểm y tế; số người nhận các chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại khu vực đô thị đạt 85%.
Để làm được điều này, Đảng bộ Bộ Tài chính xác định 6 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ 2025-2030.
Thứ nhất, đột phá mạnh mẽ về thể chế, chính sách tài chính, phân cấp, phân quyền, khơi thông, giải phóng nguồn lực, tạo động lực cho phát triển
Thứ hai, nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ nguồn lực tài chính và hiệu quả đầu tư công;
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân - một động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế quốc gia;
Thứ tư, đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số;
Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thống kê phục vụ phát triển nhanh, bền vững;
Thứ sáu, tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; thu hút và trọng dụng nhân tài.