Ba cha con và những tháng ngày thiêng liêng trên công trường lịch sử xây dựng Lăng Bác
(CLO) Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, một công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, văn hóa, chính trị to lớn đã được tạo nên từ bàn tay và trái tim của hàng vạn con người. Góp sức trong đó, bà Nguyễn Thị Thanh Sơn cùng anh trai đã đồng hành với người cha của mình tham gia vào công tác xây dựng Lăng Bác.
Công trình ý Đảng, lòng dân
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào ngày 2/9/1969, thực hiện theo nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là được lưu giữ mãi mãi hình ảnh của Người, trong phiên họp sáng 29/11/1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã bàn và quyết định: “Thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng Lăng của Người” tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi Bác đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quyết định xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được lan truyền nhanh đến mọi tầng lớp nhân dân qua các phương tiện thông tin. Một đợt sáng tác mẫu thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát động. Từ tháng 5 đến tháng 8/1970, ban tổ chức đã nhận được hơn 200 phương án thiết kế của 16 đơn vị, ngành và nhiều cá nhân gửi tới. Hội đồng sơ tuyển đã chọn được 24 phương án có nhiều ưu điểm nhất để triển lãm lấy ý kiến nhân dân từ tháng 9 đến tháng 11/1970 tại 5 địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên, Sơn La.
Từ ý kiến đóng góp của nhân dân, bản thiết kế sơ bộ về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được hoàn chỉnh. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, ngày 9/2/1971, Chính phủ hai nước đã ký kết Hiệp định Liên Xô giúp đỡ kỹ thuật cho Việt Nam giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng Lăng của Người.
3 cha con trên công trường lịch sử
Ngày 2/9/1973, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khởi công xây dựng. Nhân dân cả nước hướng về công trình như một tiếng gọi thiêng liêng, đóng góp sức người, sức của, những vật liệu quý của địa phương cho công trình.
Trong số những cán bộ, chiến sĩ, công nhân được huy động, Trung tá Nguyễn Thị Thanh Sơn, nguyên cán bộ Bộ Tư lệnh Thông Tin là một trong hai người con đồng hành với người cha của mình tham gia vào công tác xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cha của Trung tá Nguyễn Thị Thanh Sơn là ông Nguyễn Văn Bé từng làm Trưởng ty Công chánh Quảng Nam - Đà Nẵng năm 1946.

Khi đất nước phát động phong trào xây dựng Lăng Bác, ông Bé sẵn sàng tình nguyện tham gia và tập kết ra Bắc. Với tấm bằng kỹ sư thủy lợi từ Liên Xô cộng với khả năng thông thạo 3 thứ tiếng Tiếng Anh, Tiếng Pháp, tiếng Nga, ông Bé được nhận lệnh làm Phó trưởng Ban chỉ huy CT.75808 - mật danh xây dựng công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc bấy giờ.
“Được góp phần xây dựng Lăng Bác cùng cha và anh trai là kỷ niệm thiêng liêng nhất đời tôi. Giờ đây, hai người thân yêu ấy đã không còn, nhưng mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn tràn đầy xúc động và tự hào. Khi ấy, bố tôi phụ trách chung về thiết kế, anh tôi tham gia phần lựa chọn vật liệu, còn tôi tham gia thực hiện đường cáp thông tin. Ngày ngày, 3 cha con cùng làm việc tại công trường, tối trở về căn nhà tập thể ở phố Hoàng Văn Thụ, chỉ cách Lăng vài chục mét. Mẹ tôi ở nhà lo hậu cần, chăm sóc sức khỏe để ba cha con yên tâm cống hiến. Đó là những tháng ngày đầy vinh dự và trách nhiệm”.

Đối với Trung tá Nguyễn Thị Thanh Sơn, việc tham gia xây dựng Lăng Bác mang một ý nghĩa đặc biệt. Bà từng là một trong những thiếu nhi miền Nam tập kết ra Bắc trên con tàu Kilinski của Ba Lan.
“Tôi luôn nhớ về Bác bằng tất cả sự kính trọng và ân tình, bởi tuổi thơ tôi lớn lên từ sự chăm lo của Người. Là học sinh Trường Học sinh miền Nam, chúng tôi được Bác quan tâm từ manh áo, bữa cơm. Dù không chăm sóc từng cá nhân, nhưng tình thương của Bác dành cho miền Nam, cho thế hệ chúng tôi là vô bờ bến. Chính tình cảm ấy khiến tôi càng thấy thiêng liêng khi được góp phần dựng xây nơi Người an nghỉ”, bà Sơn xúc động kể lại.

Cũng theo bà Sơn, cha bà đã dành tâm huyết viết cuốn nhật ký ghi lại những công việc xây dựng Lăng Bác. Bà vẫn nhớ những dấu mốc trong cuốn nhật ký của cha như ban phụ trách là đồng chí Đỗ Mười, Phùng Thế Tài, Vũ Kỳ… Ngày 2/9 năm 1973, khởi công đào móng xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, 27/10 đổ mẻ bê tông đầu tiên…
Đặc biệt, trong nhật ký, cha của bà kể, vật liệu xây dựng Lăng Bác được mang về từ nhiều địa phương, vùng miền. Cát được lấy từ các con suối thuộc xã Kim Tiến (huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình cũ), do đồng bào Mường đem về. Đá xây lăng khai thác ở núi Nhồi của Thanh Hóa, đá hoa ở núi Sài Sơn (huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, nay là TP. Hà Nội), đá đỏ ở núi Non Nước (tỉnh Ninh Bình cũ). Gỗ làm Lăng được nhân dân dọc dãy Trường Sơn gửi ra, gồm 16 loại gỗ quý…
Ngày hội lớn của dân tộc
Ngày 29/8/1975, sau 2 năm xây dựng với sự đồng tâm, đồng lòng của toàn dân tộc, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trung tâm văn hóa chính trị của cả nước, nơi hội tụ những di tích lịch sử của dân tộc.
Từ đây, vào những ngày lễ lớn của dân tộc, đặc biệt là ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hàng nghìn người dân trên khắp mọi miền Tổ quốc đều đến Lăng viếng Bác để tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn của Người.
Đặc biệt, năm nay, nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, tại Quảng trường Ba Đình diễn ra lễ diễu binh, diễu hành. Đây là sự kiện thiêng liêng, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cha anh đã dày công vun đắp.

Những ngày này, tại Quảng trường Ba Đình, lễ diễu binh, diễu hành được tổ chức, thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Hàng vạn người dân từ mọi miền đất nước đã về Thủ đô, hòa mình trong không khí trang nghiêm, xúc động. Trong khoảnh khắc thiêng liêng ấy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Người cha thân yêu của lực lượng vũ trang nhân dân.
Từng khối quân nhạc, khối lực lượng vũ trang, từng đoàn đại biểu công - nông - trí thức, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi tiến qua Lăng Bác trong tiếng nhạc hào hùng, thể hiện sức mạnh, niềm tin và khát vọng của dân tộc Việt Nam trong chặng đường phát triển mới.
Nhiều cựu chiến binh, những người từng tham gia kháng chiến và cả thế hệ trẻ hôm nay đều chung một niềm xúc động. Họ không chỉ được sống lại khí thế hào hùng của mùa Thu lịch sử 1945, mà còn thêm tự hào về một Việt Nam độc lập, tự do, đang vươn mình hội nhập, phát triển.

Lễ diễu binh, diễu hành tại Quảng trường Ba Đình trong ngày Quốc khánh 2/9 năm nay không chỉ là hoạt động kỷ niệm, mà còn là dịp để toàn dân tưởng nhớ công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời tri ân sâu sắc các bậc tiền bối cách mạng, Anh hùng liệt sĩ, thương bệnh binh, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, những Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, cùng đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế đã hy sinh, cống hiến và dành sự ủng hộ quý báu cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tinh thần Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 mãi mãi bất diệt, trở thành niềm tự hào, nguồn sức mạnh và động lực thôi thúc dân tộc Việt Nam tiếp nối truyền thống bất khuất, nuôi dưỡng khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó cũng là nền tảng hun đúc bản lĩnh, trí tuệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khơi dậy quyết tâm xây dựng một đất nước phát triển toàn diện, bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.