Thu hút, trọng dụng và đãi ngộ 'nhân tài': Giải pháp đột phá hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW
(CLO) Việc nhận diện đúng thực trạng hiện nay trong thu hút, đãi ngộ và trọng dụng nhân tài, khái niệm về “nhân tài” trong kỷ nguyên mới là rất cần thiết để xây dựng các thể chế chính sách phù hợp, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ “nguyên khí” của quốc gia trong kỷ nguyên mới theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.
Tiếp tục trao đổi cùng Nhà báo và Công luận, GS.TSKH Dương Quý Sỹ, Chủ tịch Hội đồng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục & Phát triển nhân lực, Giáo sư kiêm nhiệm Đại học Penn State- Mỹ & Đại học Paris Cité – Pháp cho rằng, những mục tiêu, giải pháp và định hướng chiến lược mà Nghị quyết 71-NQ/TW đã đề ra về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, cho thấy chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài có vai trò rất quan trọng, không chỉ dừng lại ở phạm trù lý luận mà cần phải được luật hóa và cụ thể hóa bằng các giải pháp mang tính đột phá cao.

Trong lịch sử 80 đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc - thống nhất đất nước (2/9/1945–2/9/2025), Đảng và Nhà nước ta luôn thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài; đây cũng là truyền thống quý báu của dân tộc, được khắc trên Văn bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ nghìn năm qua: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao” (Thân Nhân Trung); khẳng định vai trò quyết định của nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước, thể hiện truyền thống trọng dụng nhân tài của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ; truyền thống đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy ngay từ khi Cách mạng Tháng 8 thành công và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong suốt quá trình phát triển của đất nước, “hiền tài là nguyên khí quốc gia” luôn được Đảng ta xem là tư tưởng cốt lõi, soi sáng cho các chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, việc thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là động lực quyết định cho sự phát triển của đất nước.

Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về “đột phá phát triển giáo dục và đào tạo” đã nhấn mạnh rõ vai trò then chốt của nhân tài trong công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời đề ra những chính sách, cơ chế mang tính đột phá ưu việt nhằm thu hút, trọng dụng và phát huy tối đa tiềm năng của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, chuyên gia, nhân tài trong và ngoài nước.
Trong thời gian qua, cùng với việc ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương trên các mặt kinh tế và xã hội, giáo dục và y tế, văn hóa và nghệ thuật, khoa học công nghệ và an ninh quốc phòng, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện và phát triển các quan điểm chỉ đạo, các cơ chế chính sách về thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài dựa trên cơ sở quan điểm “nhân tài tạo đột phá cho sự phát triển của đất nước”.
Nghị quyết 29-NQ/TW (04/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã xác định “Tạo khung cải cách giáo dục và đào tạo để nuôi dưỡng và phát triển nhân tài, gắn với chất lượng, chuẩn hóa và hội nhập”.
Nghị quyết số 26-NQ/TW (19/5/2018) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ nêu rõ cần “Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước và nước ngoài”; xác định một trong năm đột phá chiến lược là “… có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài”.
Nghị quyết số 52-NQ/TW (27/9/2019) về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng chỉ rõ “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao”.

Cho đến nay thành quả đạt được của chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài của thông qua việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi do bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Thứ nhất, chưa có một cơ chế chung cho việc triển khai đồng bộ chính sách thu hút và đãi ngộ nhân tài từ trung ương đến địa phương;
Thứ hai, sự khác biệt trong việc vận dụng cơ chế đặc thù và chính sách thu hút của từng địa phương;
Thứ ba, sự chưa quan tâm đúng mức và thiếu chủ động trong việc thực hiện chính sách thu hút – đãi ngộ;
Thứ tư, chưa nhận định đúng khái niệm về nhân tài và nguồn nhân lực chất lượng cao;
Thứ năm, các đơn vị hành chính công chưa xây dựng được một môi trường làm việc phù hợp nhằm thu hút nhân tài mang tính bền vững;
Thứ sáu, chưa có cơ chế chung cho sự tôn vinh và đãi ngộ nhân tài nhằm giúp nhân tài được thu hút gắn bó lâu dài với tổ chức để công hiến.
Do vậy để triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài nhằm đạt mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/TW về một nền giáo dục tinh hoa cần phải có những chính sách mang tính đột phá, những cơ chế đặc thù và những giải pháp phù hợp với thực tiễn bộ máy hành chính hai cấp, cần phải có một tầm nhìn mang tính thời đại và biện chứng trong việc cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo, những mục tiêu và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết 71-NQ/TW;
đồng bộ với việc tạo môi trường làm việc thuận lợi để phát huy tối đa động lực cống hiến của nguồn nhân tài tại chỗ, cùng với nhân tài được thu hút từ nước ngoài về, luôn toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự đổi mới sáng tạo, phát triển vượt bậc của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết 71-NQ/TW có vai trò đặc biệt quan trọng để đóng góp cho hệ thống giáo dục đạt được mục tiêu “đến năm 2045 Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới, nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước và ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực”.
Do vậy trong tương lai, nhân tài Việt Nam sẽ luôn được trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh và được xem như là những “hiền tài” của đất nước; là những người hội tụ đủ cả năng lực chuyên môn cao và phẩm chất đạo đức cao đẹp “vừa có tài vừa có đức - vừa hồng vừa chuyên”.

Tuy nhiên để có thể đóng góp tài năng, trí tuệ và năng lực của mình, góp phần cùng nguồn nhân lực cả nước đạt được những mục tiêu đột phá trong giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW, nhân tài cũng cần phải có cả những năng lực thích ứng cao với môi trường làm việc, với cơ chế và chính sách đang dần được hoàn thiện, và thích ứng với sự chưa đồng bộ về nguồn nhân lực trong các tổ chức tham gia làm việc và đóng góp.
Yêu cầu cơ bản để nhân tài tham gia đóng góp tạo sự đột phá theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW
Môi trường làm việc mang tính chuyên nghiệp, tôn trọng và đồng đẳng
Môi trường làm việc là yếu tố tiên quyết đầu tiên bảo đảm cho nhân tài được tham gia vào đóng góp năng lực cho tổ chức, cho địa phương. Đây là yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự toàn tâm toàn ý đóng góp của những nhân tài được thu hút và trọng dụng.
Môi trường làm việc phải thật sự chuyên nghiệp, khoa học trong việc vận dụng mô hình bộ máy tổ chức của nền hành chính công hiện đại đang được Chính phủ đổi mới, cải cách, để vận dụng phù hợp vào thực tiễn các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức xã hội; môi trường làm việc phải lấy quan điểm chủ đạo là tạo động lực cho mọi người trong tổ chức tham gia đóng góp ở mức cao nhất và nhân tài là một mắc xích quan trọng trong hệ thống để vận dụng năng lực tập thể tạo ra những hiệu quả công việc và thành quả tốt nhất; vì “Những thành tựu cao nhất của tài năng phải là những sản phẩm của tập thể”.
Do vậy nhân tài phải vừa là chủ thể tham gia trực tiếp để phát triển tổ chức, vừa tạo động lực cho những người trong tổ chức, giúp tổ chức phát triển lên tầm cao mới, tạo động lực cho sự đổi mới, sáng tạo trong tổ chức.
Thế nên, tạo môi trường làm việc phù hợp cho nhân tài để đạt được mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/TW, đòi hỏi người đứng đầu tổ chức sử dụng nhân tài phải là những người có năng lực sử dụng nhân tài; chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài cần phải chú trọng việc tạo môi trường làm việc tối ưu cho nhân tài, đồng bộ với sự tôn vinh và chế độ đãi ngộ.
Cơ chế tôn vinh và sự đãi ngộ vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại
Đảng và Nhà nước ta đã luôn vận dụng tư tưởng sử dụng người tài theo truyền thống của dân tộc và đặc biệt là theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam và cũng là “Thiên tài” trong lĩnh vực sử dụng nguồn lực con người theo tinh thần phát huy sức mạnh tập thể và dựa trên khối đại đoàn kết dân tộc. Sự tôn vinh, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất bình dị nhưng mang đậm truyền thống dân tộc nhưng lại có tác động mạnh mẽ đến tình cảm, nhân cách, lý tưởng của các nhân tài và đã là động lực cho những thế hệ nhân tài là những bậc tiền bối lão thành cách mạng đã cống hiến trọn cuộc đời của mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam giàu đẹp ngày hôm nay; đây cũng sẽ là tiền đề giúp cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW trong đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài.

Bên cạnh đó, sự tôn vinh cao nhất đối với nhân tài đó là trân trọng sự đóng góp của nhân tài cho tổ chức và tạo môi trường thật tốt cho nhân tài phát huy tài năng, đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội. Vì đối với nhân tài thì “Sự tôn vinh cao đẹp nhất là đem đến được những thành quả do tài năng, năng lực vượt trội do mình tạo ra cùng với tập thể cho tổ chức và cho cộng đồng”.
Sự tôn vinh nhân tài còn thể hiện thông qua việc xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho nhân tài phát huy những ý tưởng đổi mới sáng tạo góp phần vào sự phát triển của tổ chức và địa phương, tạo sự đột phá trong giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và Nghị quyết 57-NQ/TW.
Cơ chế chính sách bảo đảm việc thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài nhằm đạt được những mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW
Để đạt được những mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW, việc thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài cần phải được thể chế hóa và cần tập trung vào ưu tiên cho các ngành nghề, lĩnh vực thiết yếu phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Cần có một cơ chế, chính sách chung về chế độ thu hút và đãi ngộ nhân tài nhằm tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức tuyển dụng nhân tài có cơ sở triển khai thực hiện và nhằm bảo đảm sự ổn định – bền vững trong việc sử dụng nhân tài từ trung ương đến địa phương, phù hợp với chính quyền 2 cấp và đề cao tính tự chủ.
Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo được ban hành trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa và hợp tác đa phương, ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu ngày càng cao và sự dịch chuyển không ngừng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực/toàn cầu, sự đòi hỏi cấp thiết của một số ngành nghề đặc thù luôn cần phải có cơ chế và chính sách ưu tiên đầu tư thu hút nhân tài trong giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y sinh học và môi trường, năng lượng và vũ trụ.

Việc tuyển dụng nhân tài trong hệ thống hành chính công, trong đơn vị công lập cần phải được thể chế hóa thông qua các hội đồng tuyển dụng nhân tài, cụ thể hóa các tiêu chí về đánh giá năng lực nhân tài, quy chế tuyển chọn; có chế độ chính sách phù hợp với tiềm lực kinh tế xã hội của địa phương và quốc gia; tiến đến thể chế hóa việc xây dựng các tiêu chí về năng lực, chỉ số thu hút, trọng dụng, tôn vinh và đãi ngộ nhân tài quốc gia và quốc tế đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam.
Quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/TW là động lực tạo ra sự đột phá trong cơ chế đặc cách tuyển dụng, đồng cơ hữu và bổ nhiệm nhân tài vào những vị trí cần thiết cho sự phát huy tài năng của nhân tài được thu hút; cơ chế bảo đảm môi trường làm việc phù hợp cho nhân tài mang tính chuyên nghiệp và lấy sản phẩm đầu ra là thước đo cho giá trị đóng góp của nhân tài; cơ chế bảo vệ nhân tài tránh những rủi ro và nguy cơ bị triệt tiêu tài năng khi bị cô lập, thiếu hợp tác trong môi trường làm việc.
Đào tạo, nuôi dưỡng và phát triển nhân tài theo tinh thần tạo sự đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW
Thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua và trong tình hình hiện nay theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, cho thấy chính sách phát triển nhân tài bền vững và hiệu quả nhất, song song với cơ chế thu hút – trọng dụng và đãi ngộ nhân tài ở nước ngoài đóng góp cho Việt Nam là việc đào tạo – bồi dưỡng dưỡng và phát triển nhân tài từ nguồn lực con người của quốc gia.
Nhân tài được thu hút và trọng dụng từ bên ngoài ranh giới quốc gia đóng góp cho Việt Nam là nguồn lực quan trọng, nhưng đi kèm là phải có những cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù, chế độ lương và đãi ngộ đặc biệt, sự tôn vinh phù hợp. Do vậy cần phải bảo đảm tính ổn định về chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ, tránh sự ra đi của nhân tài vì tìm đến một môi trường làm việc có cơ hội đãi ngộ cao hơn. Bên cạnh đó cần phải có chính sách mang tính đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân tài tại Việt Nam.
Mô hình tháp phát triển nhân tài “Vạn hoa”
Từ những quan điểm cá nhân và những đúc kết từ thực tiễn tại Việt Nam, sau nhiều năm học tập và nghiên cứu làm việc ở các quốc gia tiên tiến và sự tương tác thường xuyên trong môi trường làm việc chuyên ngành với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tác giả bài viết đề xuất “Mô hình tháp phát triển nhân tài vạn hoa” để có thể đóng góp một giải pháp cho sự phát triển bền vững trong chính sách phát triển nhân tài của đất nước theo tinh thần đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW về phát triển giáo dục và đào tạo, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia dồi dào về nguồn lực nhân tài, tiến đến có thể xuất khẩu nhân tài cho toàn cầu.

Trước hết cần phải ươm mầm cho sự phát triển tài năng của trẻ ngay từ tuổi học đường thông qua việc phát huy và duy trì truyền thống hiếu học trong cộng đồng, trong xã hội và từng gia đình trên cơ sở nền tảng của “xã hội học tập”, “học tập suốt đời” đã và đang được triển khai rộng khắp trên cả nước; đặc biệt mỗi gia đình luôn quan tâm đến việc giáo dục cho trẻ truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, lòng yêu quê hương đất nước.
Trên cơ sở đó, nhà trường các cấp sẽ nơi cùng với gia đình ươm mầm tài năng cho trẻ thông qua một môi trường giáo dục tiên tiến và tinh hoa, nhằm giúp thế hệ trẻ phát huy tài năng, năng khiếu ban đầu thông qua các hoạt động học tập và trải nghiệm; nhà trường cùng với gia đình phải không ngừng phát huy các tố chất của trẻ trên mọi lĩnh vực và đặc biệt là tập trung vào bồi dưỡng những năng lực, năng khiếu đặc biệt: “Mỗi trẻ em đều là một nhân tài chưa lớn, do vậy nhiệm vụ của gia đình và nhà trường là phải khai phóng những tiềm năng của trẻ, giúp trẻ sẽ trở thành nhân tài đóng góp cho cộng đồng và xã hội sau này”.

Thầy cô giáo cũng phải là những người nuôi dưỡng, truyền cảm hứng, tạo động lực, khơi dậy tài năng tiềm tàng trong mỗi học sinh, sinh viên ngay từ rất sớm và tiếp tục bồi dưỡng và phát huy những tài năng ấy vì đây là yếu tố then chốt cho sự hình thành nhân tài trong tương lai. Sự hình thành nhân tài sẽ đến khi mà sự phát triển tài năng cấp độ cao nhất thông qua vận dụng những kiến thức tiêu biểu thu nhận được từ học tập, trải nghiệm nghề nghiệp, vận dụng vào thực tiễn tạo ra những giá trị sản phẩm tập thể và cá nhân có ứng dụng hữu ích cho cộng đồng trên tinh thần phục vụ và chia sẽ.
Sau cùng là sự phát triển của tài năng của mỗi một nhân tài không chỉ dừng lại ở việc đóng góp năng lực vượt bậc của mình để tạo ra một sản phẩm hữu hình hay phi vật thể có ích cho cộng đồng mà phải còn là nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, ươm mầm và phát triển tài năng kế thừa, đào tạo ra những đóa hoa tài năng muôn màu sắc, đa dạng và phong phú như một “lăng kính vạn hoa” cho đất nước; đây có thể xem như là kết quả cao nhất trong tháp phát triển nhân tài từ nguồn lực con người của quốc gia.
Để cho nhân tài có thể đóng góp một phần vào thực hiện được một số mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, cần phải thể chế hóa việc đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài để bảo đảm duy trì tính ổn định và bền vững của nguồn lực nhân tài hiện có và tương lai; phát triển và hình thành các “nhóm tài năng”, câu lạc bộ nhân tài, tạo điều kiện và động lực cho nhân tài phát hiện tài năng mới, tạo sự kế thừa tài năng thông qua việc đào tạo các thế hệ trẻ phát huy tài năng cá nhân ở mức cao nhất, phục vụ cho sự phát triển của của cộng đồng và của đất nước.
Thu hút, trọng dụng và đãi ngộ “nhân tài” vừa là cơ hội vừa là thách thức cho mỗi quốc gia trong việc tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước trở thành quốc gia tiên tiến.

Việc xây dựng cơ chế chính sách tối ưu về thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài, sẽ tạo ra sự đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp vào việc hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Tài năng luôn ẩn chứa trong mỗi con người và đặc biệt là trong mỗi con người Việt Nam, do vậy các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 71-NQ/TW tạo động lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài từ nguồn lực con người Việt Nam trong và ngoài nước, nguồn lực nhân tài từ các nước trong khu vực/toàn cầu đến đóng góp cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới./.
Khái niệm về “nhân tài” đã xuất hiện từ rất lâu trong nền văn minh nhân loại; nhưng hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về nhân tài giữa các quốc gia.
Một số khái niệm về nhân tài thường được các nước sử dụng: “Nhân tài là những người thường xuyên thể hiện năng lực đặc biệt và có những thành tích đặc biệt trong một lĩnh vực chuyên môn hẹp và chuyên sâu, trong một số hoạt động thực tiễn đem lại những thành tựu, hiệu quả cao và thiết thực cho cùng lĩnh vực chuyên ngành hoặc cho cộng đồng”; “Nhân tài là những người có tri thức hoặc kỹ năng chuyên môn cao, có năng lực lao động sáng tạo cao và có những đóng góp hữu ích cho xã hội”; “Nhân tài là người có tri thức, là người lao động có tố chất và năng lực cao trong nguồn nhân lực”…
Tại Việt Nam, khái niệm về nhân tài được cho rằng “Nhân tài là những người có tài năng, năng lực vượt trội ở một lĩnh vực nào đó: kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học... và có đóng góp cho xã hội”; “Nhân tài là người có năng lực cao để có thể đưa ra những ý tưởng mới có hàm lượng sáng tạo và hiệu suất ứng dụng cao nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn hoặc nhằm hoàn thành xuất sắc một số nhiệm vụ nhất định trong một ngành, một chuyên ngành, một lĩnh vực cụ thể”.
Tuy nhiên bên cạnh những yêu cầu về năng lực nổi trội, thành tích vượt bậc trong một lĩnh vực cụ thể, được xã hội và cộng đồng chuyên môn thừa nhận, nhân tài cần hội tụ phẩm chất đạo đức, lý tưởng và tinh thần cống hiến cao đẹp, có khả năng tạo ra giá trị đặc biệt cho sự phát triển của cộng đồng và đất nước.