Kinh tế vĩ mô

Việt Nam trong bản đồ viện trợ Đông Nam Á: Cơ hội và những khoảng trống cần lấp đầy

Hà Linh 01/10/2025 07:13

(CLO) Trong báo cáo Bản đồ viện trợ Đông Nam Á 2025 (Southeast Asia Aid Map 2025 – Key Findings Report), Việt Nam nổi lên không chỉ như một trong những nước nhận ODF nhiều nhất khu vực, mà còn là một trường hợp điển hình cho xu hướng dịch chuyển dòng vốn phát triển – từ ưu tiên xã hội sang tập trung hạ tầng và năng lượng. Điều này mở ra cả cơ hội tăng trưởng lẫn những thách thức dài hạn về phát triển bền vững.

Bức tranh toàn cảnh: Khoảng cách ngày càng rõ rệt

Bức tranh toàn cảnh về các dòng tài chính phát triển chính thức (Official Development Finance – ODF) tại khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2015–2023 được Viện Lowy (Úc) tái hiện tại Bản đồ viện trợ Đông Nam Á 2025. Bản đồ này cho thấy trong gần một thập kỷ (từ năm 2015 -2023) với hơn 300 tỷ USD nhận được từ dòng tài chính phát triển chính thức, Đông Nam Á tiếp tục là điểm đến quan trọng của nhiều đối tác phát triển quốc tế.

Trong đó Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là ba đối tác lớn nhất. Nguồn vốn chủ yếu được phân bổ vào các lĩnh vực: năng lượng, giao thông – vận tải, và y tế.

danang3.jpg
Các nguồn hỗ trợ tài chính từ các nhà tài trợ nước ngoài đã hỗ trợ Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế. Ảnh minh hoạ: H.A

Tuy nhiên, đằng sau con số khổng lồ ấy là những chênh lệch ngày càng lớn. Trong giai đoạn 2015-2023 này, các khoản viện trợ từ phương Tây bị cắt giảm mạnh. Anh, EU và nhiều nhà tài trợ truyền thống giảm đáng kể dòng vốn. Điều này tác động đặc biệt nặng nề đến các quốc gia nghèo hơn trong khu vực như Lào, Myanmar, Timor-Leste. Dòng tài trợ suy giảm đang đẩy các nước nhỏ, nghèo vào tình thế khó khăn, phụ thuộc ngày càng nhiều vào các nguồn vay khác, trong khi nghèo đói có xu hướng tăng.

Ngược lại, các nước thu nhập trung bình như Việt Nam, Indonesia, Philippines lại có sự ổn định hơn nhờ khả năng tiếp cận vốn vay ưu đãi hoặc vay thương mại từ các định chế đa phương. Đây là lý do tại sao báo cáo nhận định: khoảng cách phát triển trong khu vực ngày càng bị khoét sâu – khi các nền kinh tế lớn hơn tiến lên, những quốc gia nhỏ, nghèo bị bỏ lại phía sau.

Ông Alexandre Dayant -một nhà kinh tế cao cấp và Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Viện Lowy, trưởng Dự án Bản đồ tài trợ này cho biết, Bản đồ tài trợ Đông Nam Á không chỉ là một báo cáo đơn thuần mà còn là cơ sở dữ liệu và công cụ trực tuyến về các dòng tài chính tài trợ. Bản đổ cho biết số lượng cam kết tài trợ, số lượng giải ngân ở từng quốc gia, từng dự án, các đối tác (hiện đang có 129 nhà tài trợ).

“Đây là cơ sở dữ liệu về tài chính tài trợ đầy đủ nhất hiện nay. Chúng ta có thể tìm thấy những thông tin chi tiết về các dự án, dòng tiền ra vào, hiện trạng giải ngân. Bản đồ cũng cung cấp bộ lọc thông tin về đối tác thực hiện, đối tác triển khai”, ông Alexandre Dayant cho hay.

Bản đồ này cho thấy dòng tiền tài trợ quốc tế đang chảy vào đâu, lĩnh vực nào. Cơ sở dữ liệu này cung cấp dữ liệu cho các nhà hoạch định chính sách, cho các nhà tài trợ định hướng chiến lược đầu tư, xác định khoảng trống cần bổ sung, đồng thời giúp các nhà tài trợ tìm được đối tác phù hợp. Và cũng cho thấy xu hướng của dòng tài trợ, phản ánh những thay đổi trong các ưu tiên của nhà tài trợ.

Cơ sở dữ liệu trong Bản đồ này cũng cho thấy Bản đồ còn cho thấy xu hướng tài trợ từ các đối tác, các quốc gia và các nguồn tài trợ cũng như các ngành được tài trợ bằng những hình đồ hoạ trực quan và những khoảng trống cần lấp đầy.

Trong khi dòng vốn tài trợ toàn cầu và khu vực giảm mạnh thì chính trong giai đoạn 2015–2023 này, Việt Nam nhận tổng cộng 49,6 tỷ USD ODF từ 80 đối tác phát triển. Con số này giúp Việt Nam đứng trong nhóm các nước nhận viện trợ nhiều nhất khu vực. Nhưng bản đồ hỗ trợ cũng thể hiện một sự đảo chiều đáng lưu ý: nếu năm 2015 Việt Nam nhận tới 9,3 tỷ USD, thì đến năm 2023 con số này chỉ còn 2,9 tỷ USD – tức giảm gần ba lần trong chưa đầy một thập kỷ.

Tỷ lệ ODF so với GDP cũng phản ánh điều này: năm 2023, ODF chỉ chiếm 0,7% GDP của Việt Nam, thấp hơn nhiều so với mức trung bình khu vực là 1,7%. Điều đó có nghĩa, viện trợ và tài chính phát triển không còn đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam như giai đoạn trước, mà chỉ là một phần bổ trợ. Bởi Việt Nam đã là nước có thu nhập trung bình.

Đối tác chính của Việt Nam vẫn xoay quanh “bộ tứ” quen thuộc: Đó là Nhật Bản – nhà tài trợ lớn nhất, chiếm khoảng 20% tổng ODF, tập trung vào giao thông, cấp ngân sách và xã hội dân sự. Nhóm thứ hai là Ngân hàng Thế giới (WB) và Hàn Quốc, trong đó WB chú trọng vào hạ tầng (giao thông, nước, năng lượng). Tiếp đến là Ngân hàng Phát triển châu Á ADB – tập trung nhiều vào năng lượng, giao thông và y tế. Tiếp đó là Trung Quốc, Đức, Pháp và một số đối tác khác.

Thế nhưng bên cạnh vai trò là nước nhận viện trợ, Việt Nam đã nổi lên như một nhà tài trợ nội vùng.

Việt Nam - nhà tài trợ nội vùng

Việt Nam cũng bắt đầu thể hiện vai trò nhà cung cấp ODF trong khu vực. Trung bình, Việt Nam giải ngân khoảng 17 triệu USD mỗi năm cho các nước láng giềng, chủ yếu là Lào, Campuchia, Indonesia, Philippines và một số chương trình khu vực.

Việt Nam cũng là nước nhận ODF nội vùng lớn thứ tư, với nguồn chính từ Thái Lan. Điều này phản ánh sự đan xen giữa vai trò “người nhận” và “người tài trợ” của Việt Nam trong bức tranh hợp tác phát triển Đông Nam Á.

Biều đồ nguồn tài chính hỗ trợ chính thức vào Việt Nam
Biểu đồ nguồn tài chính hỗ trợ chính thức vào Việt Nam

Từ những dữ liệu trên, có thể thấy: Việt Nam đang trong quá trình chuyển dịch từ một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào viện trợ sang một quốc gia tiếp nhận vốn vay phát triển chọn lọc, đồng thời bắt đầu tham gia vào mạng lưới cung cấp ODF trong khu vực.

“Đây là một bước tiến tích cực, phản ánh sự lớn mạnh của nền kinh tế và vị thế quốc tế”, theo ông Alexandre Dayant.

Tuy nhiên, những khoảng trống trong chính sách cũng hiện rõ: Dòng vốn tập trung quá nhiều vào hạ tầng cứng, trong khi hạ tầng xã hội (y tế, quản trị, xã hội dân sự) chưa được chú ý.

Các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu (khí hậu, giới, hòa nhập) chưa được gắn kết mạnh mẽ với viện trợ dành cho Việt Nam. Sự cắt giảm viện trợ phương Tây và xu hướng cạnh tranh địa chính trị có thể khiến Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào các khoản vay từ một số đối tác lớn, tạo ra rủi ro trong dài hạn.

Dòng ODF vào Việt Nam đang hướng mạnh vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng như năng lượng, giao thông, thuỷ lợi… Các lĩnh vực khác như nước sạch và vệ sinh, công nghiệp – khai khoáng – xây dựng, và giáo dục cũng có tỷ trọng cao hơn mức trung bình khu vực.

Ngược lại, nguồn tài trợ cho phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam chỉ chiếm 26% (trung bình khu vực là 33%); Bình đẳng giới: chỉ 16% (trung bình khu vực là 21%) và Hòa nhập người khuyết tật chỉ 4% (khu vực là 8%).

Điều này có thể dẫn tới sự thiếu cân bằng, khi hạ tầng được ưu tiên nhưng các lĩnh vực “mềm” như quản trị, xã hội và phúc lợi y tế chưa được chú trọng tương xứng.

Nói cách khác, dù Việt Nam tiếp nhận dòng vốn lớn, song ít tích hợp các mục tiêu xã hội và phát triển bền vững. Đây sẽ là một thách thức trong tương lai, khi Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng xanh, bao trùm và bền vững.

Việt Nam đang nỗ lực để vượt bẫy thu nhập trung bình, để trở thành nước thu nhập cao. Trong hành trình này ODF vẫn là một kênh tài chính cần, trong đó ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài vẫn là nguồn quan trọng bổ trợ cho các nguồn vốn trong nước và các vốn khác phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.

Nhưng ở một tầng sâu hơn, Bản đồ tài trợ Đông Nam Á gợi mở rằng: tương lai phát triển bền vững của Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào nội lực kinh tế, khả năng chống chịu mà còn nằm ở cách Việt Nam định hình và sử dụng hiệu quả dòng vốn phát triển quốc tế.

Nếu Việt Nam có thể tận dụng ODF không chỉ để xây cầu, làm đường, mà còn để nâng cao năng lực quản trị, bảo vệ môi trường, thúc đẩy bình đẳng xã hội, thì đó sẽ là bước tiến quan trọng để đạt được khát vọng 2045: một Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu. Và để vượt bẫy thu nhập trung bình, đạt được khát vọng thì phải tận dụng hiệu quả ODF, muốn vậy Việt Nam cần cải cách thể chế sâu rộng, hiệu quả, ông Ron H.Slagen, Phó Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam lưu ý.

Hà Linh