Kinh tế

Giá lúa gạo hôm nay 5/10: Ổn định sau đà giảm, gạo Thái Lan giảm sâu mạnh xuống đáy thấp nhất 9 năm

PV 05/10/2025 16:45

Giá lúa gạo hôm nay 5/10 tại Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục giữ ổn định sau đà giảm, giao dịch cầm chừng; trên thị trường quốc tế gạo Thái xuống đáy.

Giá lúa gạo hôm nay 5/10: Duy trì ổn định sau đà giảm

Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giá lúa gạo hôm nay ghi nhận trạng thái ổn định, chưa xuất hiện biến động mạnh. Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang ngày 5/10, lúa Đài Thơm 8 và OM 18 (tươi) đang phổ biến ở mức 5.800 - 6.000 đồng/kg; giống IR 50404 duy trì quanh mốc 5.000 - 5.200 đồng/kg; OM 5451 dao động 5.400 - 5.600 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giữ mức 6.000 - 6.200 đồng/kg; OM 308 được giao dịch trong khoảng 5.700 - 5.900 đồng/kg so với phiên liền trước.

Hoạt động thu mua lúa Thu Đông tại nhiều tỉnh vẫn chưa sôi động. An Giang tiếp tục ghi nhận tình trạng thương lái hạn chế gom hàng, giao dịch diễn ra chậm. Cà Mau duy trì mức giá cũ nhưng lượng mua không tăng. Cần Thơ khan hiếm người hỏi hàng mới, xu hướng giảm nhẹ bắt đầu xuất hiện ở một số giống lúa tươi. Đồng Tháp ghi nhận lượng giao dịch cầm chừng, các thương nhân chỉ lựa chọn từng ruộng để thu mua. Vĩnh Long tiếp tục ở trạng thái trầm lắng, giá duy trì quanh ngưỡng hiện tại.

Giá lúa gạo hôm nay 10/8: Thị trường ổn định, nguồn cung cuối vụ khan hiếm
Giá lúa gạo hôm nay 5/10: Duy trì ổn định sau đà giảm

Ở nhóm gạo nguyên liệu phục vụ xuất khẩu, mặt bằng giá tiếp tục ổn định. OM 380 được chào bán ở mức 7.900 - 8.000 đồng/kg; OM 5451 ở 8.300 - 8.400 đồng/kg; IR 504 dao động 8.100 - 8.250 đồng/kg; CL 555 giữ mức 8.150 - 8.250 đồng/kg; OM 18 duy trì 8.500 - 8.600 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM 380 đứng ở 8.800 - 9.000 đồng/kg, IR 504 phổ biến 9.500 - 9.700 đồng/kg.

Ghi nhận từ các đầu mối thương mại cho thấy nhu cầu thu mua tại các kho lớn ở An Giang vẫn thấp. Tại Lấp Vò và Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng giao dịch nhỏ giọt, một số loại gạo nguyên liệu giảm nhẹ nhưng chưa tạo thành xu hướng rõ rệt. Ở An Cư, hoạt động mua bán diễn ra chậm, giá không có nhiều thay đổi so với các phiên trước.

Thị trường gạo bán lẻ tiếp tục giữ giá. Gạo Nàng Nhen hiện ở nhóm cao nhất 28.000 đồng/kg; Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thường xoay quanh mức 13.000 - 15.000 đồng/kg; gạo thơm Thái hạt dài 20.000 - 22.000 đồng/kg; Nàng Hoa ở mức 21.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan giữ ở mức 20.000 đồng/kg; Jasmine dao động 16.000 - 18.000 đồng/kg; gạo trắng phổ thông 16.000 đồng/kg; Sóc thường 16.000 - 17.000 đồng/kg; Sóc Thái 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giữ mức 22.000 đồng/kg.

Nhóm phụ phẩm từ xay xát lúa gạo như tấm và cám không ghi nhận khác biệt lớn. Tấm OM 5451 đang được giao dịch ở mức 7.240 - 7.350 đồng/kg; cám dao động 9.000 - 10.000 đồng/kg. Đây là mức giá phổ biến trên thị trường nông sản nội địa trong nhiều phiên gần đây.

Giá gạo châu Á biến động mạnh: Gạo Thái xuống đáy 9 năm, gạo Việt giữ vững vị thế xuất khẩu

Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo châu Á tiếp tục xuất hiện nhiều biến động. Gạo 5% tấm của Thái Lan giảm sâu xuống còn 345 USD/tấn, đánh dấu mức thấp nhất trong gần một thập kỷ. Nguồn cung lớn từ vụ thu hoạch cuối mùa cùng sức mua yếu khiến hàng tồn kho tăng nhanh, buộc các nhà xuất khẩu phải hạ giá để kích cầu, cho thấy vị thế cạnh tranh của gạo Thái đang chịu sức ép mạnh từ các đối thủ trong khu vực.

Ở chiều ngược lại, giá gạo Ấn Độ có dấu hiệu phục hồi khi các khách hàng châu Phi và Trung Đông bắt đầu quay lại thị trường. Gạo đồ 5% tấm được chào bán ở mức 358 – 365 USD/tấn, cao hơn tuần trước, còn gạo trắng 5% tấm đạt 369 – 375 USD/tấn. Nhiều nhà nhập khẩu cho rằng mặt bằng giá đã gần chạm đáy, do đó xu hướng gom hàng trở lại đang dần rõ nét.

Tại Việt Nam, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) công bố giá gạo 5% tấm giữ mức 440 – 465 USD/tấn. Tuy chưa ghi nhận sự bứt phá, nhưng mức giá ổn định giúp gạo Việt tiếp tục duy trì vị thế trong nhóm nguồn cung chất lượng cao. Khối lượng giao dịch trên thị trường quốc tế chưa gia tăng mạnh do nhu cầu toàn cầu vẫn yếu, nhất là sau khi Philippines quyết định kéo dài thời gian tạm dừng nhập khẩu thêm hơn 60 ngày.

Một số thị trường khác cũng chứng kiến những diễn biến trái chiều. Bangladesh đang phải mua gạo với giá cao hơn 15 – 20% so với cùng kỳ dù nguồn cung nội địa không thiếu hụt. Hàn Quốc dự báo sản lượng gạo năm 2025 chỉ đạt khoảng 3,57 triệu tấn, giảm năm thứ tư liên tiếp và rơi xuống mức thấp thứ hai từng được ghi nhận, do diện tích canh tác bị thu hẹp đáng kể.

Các chuyên gia phân tích thị trường gạo thế giới cho rằng xu hướng giá trong ngắn hạn khó tăng mạnh bởi cung lớn từ nhiều quốc gia sản xuất chủ lực vẫn đang gây áp lực lên thị trường. Tuy nhiên, việc Việt Nam duy trì mức giá xuất khẩu ổn định giữa bối cảnh cạnh tranh gay gắt được xem là lợi thế giúp ngành gạo giữ vững đà tăng trưởng và củng cố uy tín trên bản đồ thương mại quốc tế.

PV