Góp ý văn kiện Đại hội XIV: Xác định rõ ngành công nghệ chiến lược, gắn với chuỗi giá trị và thương hiệu quốc gia
(CLO) TS. Nguyễn Minh Phong góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV cần làm rõ các ngành công nghệ chiến lược như chíp bán dẫn, tự động hóa, vật liệu tiên tiến, sinh học… gắn với phát triển doanh nghiệp, chuỗi giá trị và thương hiệu quốc gia.
Góp ý vào dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế cho rằng, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV lần đầu tiên đã tích hợp ba văn kiện, gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội và Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng.
.jpg)
Nội dung dự thảo ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào vấn đề và có kèm Chương trình hành động, giúp nâng cao tính thực tiễn và bảo đảm tính khả thi trong việc triển khai, hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội.
Dự thảo ghi nhận nền tảng kinh tế để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với vị thế chưa từng có, đồng thời nhận diện đúng những điểm yếu về năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, thể chế phát triển còn chậm. Dự thảo cũng mạnh dạn đề ra mục tiêu cao, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp và chương trình hành động cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra.
Đặc biệt, theo TS. Nguyễn Minh Phong, Dự thảo đã tạo làn gió tươi mới trong đột phá nhận thức chính trị của Đảng ta về kinh tế, bởi lần đầu tiên, văn kiện Đại hội Đảng không còn dùng khái niệm “thành phần kinh tế”, mà chỉ dùng cụm từ “khu vực kinh tế”.
Đồng thời, cũng lần đầu tiên, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc chính thức khẳng định phải phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế, trong đó khu vực kinh tế tư nhân có vai trò “là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”. Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Minh Phong nên bỏ chữ “một”.
Trong khi đó, kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng.
Ngoài ra, Dự thảo cũng lần đầu tiên nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; các thể chế khác là quan trọng.
Dự thảo đề cập hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp.
Đồng thời, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước – thị trường – xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực.
Dự thảo xác lập mô hình tăng trưởng mới, nhấn mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, cũng như khẳng định quan điểm “phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm”.
Trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính, tạo ra sức sản xuất mới, phương thức và lĩnh vực kinh doanh mới.
Dự thảo cũng đề cập việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới.
Theo TS. Nguyễn Minh Phong, những chỉ số, định hướng và mục tiêu mang tầm nhìn táo bạo của Dự thảo là đúng đắn, có tính khả thi, tạo niềm tin và sự kỳ vọng của nhân dân vào lời hứa của Đảng trong kỷ nguyên mới, thể hiện sự kiên định và các quyết sách chiến lược mang tính đột phá, cho phép vượt qua mọi thách thức truyền thống và phi truyền thống trong giai đoạn 2026 – 2030.
TS. Nguyễn Minh Phong cũng cho rằng, Dự thảo cần chú ý bổ sung một số định hướng: Phát triển đồng bộ các thị trường và chuỗi cung ứng; phát triển kinh tế đối ngoại gắn với tăng cường tính tự chủ, bảo đảm an ninh kinh tế; tuân thủ đầy đủ các quy luật và quy trình quản lý kinh tế thị trường; tôn trọng các cam kết và thông lệ tốt trong quản lý kinh tế quốc tế.
Xác định rõ hơn các ngành công nghệ chiến lược (ví dụ: chip bán dẫn, tự động hóa, vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học), gắn với phát triển doanh nghiệp ngành, chuỗi giá trị và thương hiệu quốc gia.
Nhấn mạnh cơ chế đột phá chuyển từ “nền kinh tế tăng trưởng” sang “nền kinh tế chất lượng, xanh, số hóa, sáng tạo”; chuyển mạnh từ cơ chế “xin – cho” sang “bật đèn xanh – chịu trách nhiệm” cho doanh nghiệp.
Áp dụng thử nghiệm cơ chế đặc thù tại các địa bàn chiến lược, dự án quốc gia.
Bổ sung mục tiêu và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong xuất khẩu, ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số, hợp tác với doanh nghiệp lớn, tham gia chuỗi toàn cầu; bảo đảm môi trường bình đẳng, minh bạch; tránh tập trung quá lớn gây bóp nghẹt SME; tăng phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho địa phương, doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hợp tác.
Bổ sung nội dung phát triển nhanh thị trường tín chỉ các-bon, có chỉ tiêu về phát thải khí nhà kính, năng lượng sạch, năng suất năng lượng; nhấn mạnh cơ chế thu hút đầu tư xanh, ưu đãi cho công nghệ “thải thấp” và loại bỏ đầu tư “thải cao”.
Thử nghiệm thể chế mới (sandbox) cho công nghệ, đầu tư xanh, đổi mới sáng tạo; nhấn mạnh yêu cầu tăng trưởng nhanh nhưng không đánh đổi môi trường, không làm mất công bằng xã hội.
Bổ sung cơ chế thu hút nhân tài quốc tế, liên kết với khu vực tư nhân, khởi nghiệp, nghiên cứu ứng dụng – để tạo “đầu vào” cho đổi mới bên cạnh “đầu ra”.
Đồng thời, cần định vị rõ hơn cơ chế giám sát – đánh giá – trách nhiệm trong phát triển kinh tế, gắn với hệ thống chỉ số đánh giá định kỳ; cơ chế thưởng – phạt rõ ràng từ Trung ương tới địa phương; thu hút sự tham gia của người dân, doanh nghiệp; ngăn ngừa lợi ích nhóm, thao túng thị trường, trục lợi chính sách...