Tin tức

Góp ý Văn kiện Đại hội Đảng XIV: Làm rõ các đột phá, nhấn mạnh yêu cầu 'thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn' của Đảng

Văn Hiền 16/11/2025 07:14

(CLO) PGS.TS Nguyễn Quang Liệu (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đánh giá cao nỗ lực chuẩn bị công phu của Dự thảo Văn kiện, đồng thời đề xuất nhiều nội dung quan trọng nhằm tăng tính thuyết phục, làm rõ các đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hoàn thiện lý luận về Đảng trong giai đoạn mới.

Theo PGS.TS Nguyễn Quang Liệu, Dự thảo Báo cáo chính trị và các văn kiện trình Đại hội XIV đã đánh giá khá toàn diện thành tựu của công tác xây dựng Đảng trong 40 năm đổi mới, đặc biệt là nhiệm kỳ XIII.

Tuy nhiên, các nhận định mang tính khái quát cao như “xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt nhiều kết quả rất quan trọng, có mặt nổi bật, đột phá chưa từng có" cần được làm rõ hơn để tăng sức thuyết phục.

05c33db823b6bf06680a2743a02a73f74c6671dc-3943-4f29-953d-1ee31a6a67da.jpeg
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVIII để lại nhiều dấu ấn ấn tượng, khẳng định thành công toàn diện, mở ra thời kỳ phát triển mới của Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Cổng TTĐT Hà Nội

Trang 6, nội dung (4) Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, có mặt nổi bật, đột phá chưa từng có.

Đây là đánh giá mang tính khái quát rất cao, rất rõ, rất hay. Tuy nhiên, khi trình bày thì chưa thực thuyết phục, cần làm rõ hơn. Kết quả “rất quan trọng” chưa được phản ánh đầy đủ trong các đánh giá: “Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ đạt được nhiều kết quả tích cực; “Đã có nhiều đổi mới trong tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng”.

Do đó, “có mặt nổi bật” cần làm rõ là những mặt nào? “đột phá chưa từng có” cũng cần làm rõ là nội dung nào mang tính đột phá? Có thể đánh giá, phân tích rõ hơn những đột phá trong xác định chủ trương, giải pháp, quá trình chỉ đạo thực hiện về công tác lý luận của Đảng; công tác tổ chức và công tác cán bộ; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng…

Trang 7 đánh giá ưu điểm có viết: “Công tác xây dựng Đảng về cán bộ được đặc biệt chú trọng, có nhiều đổi mới góp phần xây dựng toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược” có thực sự thuyết phục không, có chủ quan không trong khi nhiệm kỳ XIII có đến 170 cán bộ thuộc Trung ương quản lý bị kỷ luật Đảng, phải thi hành án hay không đủ uy tín phải xin thôi giữ chức (thực chất là từ chức). Đây là những con số chưa từng có. Cần có nhận diện chính xác hơn để có giải pháp khắc phục hiệu quả, không để lọt vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng những kẻ cơ hội.

Trong khi đó, phần đánh giá khuyết điểm (trang 12): “Công tác cán bộ còn một số bất cập, nhất là trong đánh giá cán bộ; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, nhất là quản lý cán bộ cấp chiến lược có mặt còn hạn chế.

Theo đó, PGS.TS Nguyễn Quang Liệu gợi ý: Nên tách 1 phần riêng về ưu điểm trong thực hiện hoàn thiện thể chế công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác tổ chức, cán bộ (nằm trong giải pháp đột phá thứ nhất đã được Văn kiện Đại hội XIII xác định).

Có thể hiểu, thể chế về công tác xây dựng Đảng là hệ thống tổ chức và toàn bộ những quy định buộc mọi tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên phải tuân theo để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, luôn xứng đáng vai trò, sứ mệnh của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng.

543173594_4152334081670669_6318278105478798957_n.jpg
Hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng bao gồm: hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng về chính trị... Ảnh: Thế Đại

Hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng là toàn bộ các hoạt động có ý thức, chủ động của Đảng, với sự tham gia của các tổ chức và nhân dân, trong việc bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi thể chế hiện hành, nhằm phát huy các nội dung hợp lý, khắc phục các hạn chế trong hệ thống tổ chức và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định về công tác xây dựng Đảng để đạt tới mục tiêu, yêu cầu xây dựng Đảng trong từng thời kỳ.

Hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng bao gồm: hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng về đạo đức, hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng về tổ chức, hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

Phần hạn chế trong trong công tác xây dựng Đảng: Nên sắp xếp nội dung theo thứ tự nhóm vấn đề như ở phần ưu điểm; Bổ sung thêm hạn chế trong hoàn thiện thể chế công tác xây dựng Đảng; Đánh giá rõ hơn những hạn chế trong thực hiện cách mạng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Trang 42: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh, nâng tầm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”.

Nhiệm vụ xây dựng Đảng ngay từ đầu đã được khái quát rất hay, có điểm nhấn và mới. Điểm nhấn là tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn được nhắc lại trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội sau đổi mới là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới”. Điểm mới cần nêu rõ mục tiêu “để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” nhưng mới là đưa vào Văn kiện Đảng. Do đó, cái mới nữa là bổ sung“nâng tầmvà nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”. Nhấn mạnh hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền chứ không chỉ nâng cao năng lực. Điểm nhấn là tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn được nhắc lại trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội sau đổi mới: Đó là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới”.

Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Quang Liệu đề xuất bổ sung từ thường xuyên và sắp xếp lại như sau: “Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh, nâng tầm và nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”.

Lý do, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã cảnh báo 4 nguy cơ lớn của một đảng cầm quyền cần phải phòng, chống, trong đó có nguy cơ một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái. Đại hội tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ “đổi mới đảng gắn liền với chỉnh đốn đảng”: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”.

Đây là lần đầu tiên Đảng tổng kết vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng với việc đưa trọn vẹn 3 nội dung:

Thứ nhất, không chỉ đổi mới mà còn phải gắn với chỉnh đốn.

Thứ hai, không ai khác mà chính bản thân Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn do yêu cầu nội tại của đảng cầm quyền.

Thứ ba, đây là nhiệm vụ thường xuyên. Hội nghị lần thứ 3 (khóa VII), tháng 6/1992 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta.”.

542764432_4152333971670680_1911661492955553172_n.jpg
Việc thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn trở thành quy luật của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, Đảng xác định: “Trong giai đoạn hiện nay lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, quyết định sẽ mở “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 khoá VIII đã chính thức triển khai Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Như vậy, việc thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn trở thành quy luật của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền.

Trang 42: Bỏ từ “lý luận” trong Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận” vì lý luận là một trong 3 bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng (lý luận/tuyên truyền cổ động và văn học nghệ thuật). Hơn nữa để thống nhất với các nghiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Trang 42,43 gồm các tiêu đề: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị”, “Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng”, “Tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức”, đề xuất gộp lại thành: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức” vì các mệnh đề về “chính trị”, “tư tưởng”, “đạo đức” thường đi cùng với nhau và không nên tách rời trong một chỉnh thể.

Trang 43, cần cân nhắc dùng từ chuyên gia trong câu “Đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành” rất hay nhưng lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị chỉ có chức danh giảng viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp. Còn chuyên gia cao cấp chỉ ở các cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương theo Quy định số 180 ngày 11/7/2024 của Ban Bí thư quy định về chuyên gia cao cấp (không phải là chức danh lãnh đạo và chỉ có ở Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng).

Nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện lý luận xây dựng Đảng về đạo đức, để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh" trong tình hình mới.

Đạo đức: Đảng viên, cán bộ.

Văn minh: Văn hoá/nhận thức lý luận, tư duy, tầm nhìn/ năng lực hoạch định chính sách/năng lực, hiệu quả thực thi chính sách.

Chú trọng xây dựng Đảng về cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, trọng tâm là cấp chiến lược và cấp cơ sở, nhất là người đứng đầu.

PGS.TS Nguyễn Quang Liệu đề xuất: Không nên viết “trọng tâm là cấp chiến lược và cấp cơ sở”. Vậy cấp trung gian như cấp tỉnh và tương đương có cần không?

Tại trang 43, khổ 2: “Đổi mới công tác dân vận, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”, đề xuất bổ sung nội dung đánh giá về “công tác tôn giáo” vì: Công tác tôn giáo là yếu tố trọng yếu trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nêu rõ: “Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

54497927395_e74a1abeab_b.jpg
Văn kiện thực sự trở thành kết tinh trí tuệ của Đảng, của Nhân dân, và là kim chỉ nam cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Ảnh: Thế Đại

Trang 45: “Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.

PGS.TS Nguyễn Quang Liệu đề nghị bổ sung: “Hoàn thiện và thực hiện tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.

Tại khổ cuối, trang 45: Đề nghị bổ sung cụm từ “học sinh, sinh viên” vào cuối khổ, để đầy đủ các đối tượng cần quan tâm trong công tác phát triển Đảng.

Cần làm nổi bật hơn sự phát triển nhận thức lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ở các khía cạnh: Đổi mới việc ban hành quyết sách chiến lược đột phá trong các nghị quyết mang tính chất "đòn bẩy"; việc ban hành các văn bản của Đảng theo hướng ngắn gọn, rõ trọng tâm, rõ yêu cầu về nội dung và tiến độ, rõ trách nhiệm; Đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cấp uỷ đảng và người đứng đầu tạo nên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị gắn với đôn đốc, kiểm tra, giám sát thường xuyên; Chuyển đổi số trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo…

Theo PGS.TS Nguyễn Quang Liệu, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV đã được chuẩn bị nghiêm túc, công phu và có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, việc tiếp tục hoàn thiện các nội dung mang tính đột phá, tăng tính thuyết phục trong đánh giá và làm rõ quan điểm lý luận về tự đổi mới – tự chỉnh đốn sẽ góp phần quan trọng để Văn kiện thực sự trở thành kết tinh trí tuệ của Đảng, của Nhân dân và là kim chỉ nam cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Văn Hiền