Môi trường

Góp ý Văn kiện Đại hội Đảng XIV: Tháo gỡ điểm nghẽn trong quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường

Văn Hiền 16/11/2025 14:23

(CLO) Nhìn thẳng vào sự thật, nhận rõ hạn chế, xác định đúng “điểm nghẽn” là điều kiện cần để đưa ra quyết sách đúng. Đây cũng là cơ sở để kỳ vọng giai đoạn tới sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Dự thảo Văn kiện (DTVK) thể hiện rõ sự phát triển của tư duy từ chỗ xem các vấn đề tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu là yếu tố bên ngoài, mang tính kỹ thuật sang là yếu tố nội tại, mang tính chính trị - an ninh sâu sắc, liên quan trực tiếp đến sự nghiệp “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”.

a-lei-ui-i-c-khai-nh-01-3059-1718935615.webp
Cánh rừng nhiều màu sắc tại vườn quốc gia Cát Tiên. Ảnh: Lê Đức Khánh

Việc bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, các hệ sinh thái và an ninh tài nguyên thiên nhiên chính là bảo vệ không gian sinh tồn, bảo vệ nền tảng cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc trong “kỷ nguyên vươn mình”.

Các chuyên gia của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, những đóng góp dự thảo vào văn kiện này được xây dựng nhằm khắc phục những hạn chế hiện nay và tháo gỡ các “điểm nghẽn” đã nêu, bằng cách cụ thể hóa các định hướng lớn thành cơ chế vận hành, công cụ quản lý và những giải pháp đột phá có tính khả thi cao.

ct2-3161-1722936590.webp
Cây Si Trăm Thân, có độ tuổi khoảng 400 năm với chiều cao hơn 8m, với vô số thân, cành cây chằng chịt ở rừng Quốc gia Cát Tiên. Ảnh: Thanh Thu
TT
Nội dung góp ý
Diễn giải góp ý
A
Về quản lý và sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên
Đề nghị bổ sung, nhấn mạnh: Hoàn thiện và áp dụng triệt để cơ chế định giá đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và các dịch vụ hệ sinh thái theo nguyên tắc thị trường đầy đủ. Coi đây là công cụ kinh tế căn bản để chống tiêu cực, thúc đẩy sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái nhằm tăng cường tính minh bạch, duy trì các giá trị dịch vụ hệ sinh thái lâu bền.
DTVK đã nêu hạn chế quản lý... đất đai và nguồn nước hiệu quả chưa cao. DTVK cũng đã định hướng: Thực hiện quản lý tài nguyên theo nguyên tắc thị trường. Việc bổ sung này nhằm cụ thể hóa và bắt buộc thực thi định hướng đó. Chỉ khi tài nguyên và giá trị dịch vụ hệ sinh thái được định giá đúng, thực hiện minh bạch thì thị trường mới vận hành hiệu quả và các chủ thể kinh tế mới có động lực đầu tư khoa học và công nghệ để sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và lâu bền. Vướng mắc lớn nhất trong thực thi Luật Đất đai 2024 vẫn là khâu “định giá đất cụ thể”. Về tài nguyên nước, tình trạng lãng phí trong nông nghiệp và công nghiệp còn phổ biến do cơ chế “giá dịch vụ nước” hiện nay chưa phản ánh đúng giá trị khan hiếm của tài nguyên và chi phí xử lý ô nhiễm do nước thải gây ra. Về dịch vụ hệ sinh thái cần tăng cường lượng giá và định giá đầy đủ các giá trị do hệ sinh thái cung cấp, đặc biệt mở rộng đến các giá trị hệ sinh thái ngoài rừng để thúc đẩy hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên tích cực và bền vững.
Đề nghị nhấn mạnh giải pháp: Nâng tầm công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, đặc biệt là các nguồn nước liên quốc gia lên thành một nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược đối ngoại tổng thể, thông qua ngoại giao nguồn nước chủ động ở cấp cao nhất.
DTVK xác định “an ninh nguồn nước” là thách thức toàn cầu. Với Việt Nam, đây là vấn đề an ninh quốc gia sống còn khi 63% tổng lượng nước mặt đến từ bên ngoài lãnh thổ (qua lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Mê Công). Vấn đề này vượt quá tầm kỹ thuật của ngành tài nguyên và môi trường và cần được ưu tiên ở tầm chiến lược ngoại giao cao nhất.
Các hoạt động xây dựng đập thủy điện và chuyển nước ở thượng nguồn sông Mê Công đã và đang tác động trực tiếp, nghiêm trọng đến an ninh lương thực và sinh kế của hàng chục triệu người dân tại đồng bằng sông Cửu Long, gây ra tình trạng xâm nhập mặn lịch sử, suy giảm phù sa và sạt lở bờ sông, bờ biển.
Cần bổ sung, làm rõ việc phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ/ chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (big data) trong hoạt động giám sát, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Các nội dung này cần được cụ thể về mục tiêu chiến lược, giải pháp và tiêu chí đánh giá.
Công nghệ số, AI và phân tích dữ liệu lớn là giải pháp then chốt để nâng cao hiệu quả quản lý, phát hiện sớm vi phạm, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực, giảm chi phí giám sát, tăng minh bạch, tăng trách nhiệm giải trình, hỗ trợ hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng và thu hút đầu tư, hợp tác quốc tế.
Các công nghệ hiện nay và có tiềm năng phát triển trong tương lai có thể giúp phát triển hệ thống cảnh báo sớm ô nhiễm nước kết hợp trạm đo tự động và phân tích AI phát hiện xả thải bất thường, từ đó đưa ra các cảnh báo cho địa phương và yêu cầu kiểm tra kịp thời.
Cần nhấn mạnh việc thiết lập cơ chế để người dân, cộng đồng và các tổ chức xã hội được tham gia giám sát, phản ánh và tiếp cận thông tin môi trường một cách công khai, minh bạch. Đây là yếu tố cốt lõi nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phòng ngừa tiêu cực, bảo đảm công bằng môi trường và thúc đẩy thực hiện các cam kết phát triển bền vững.
Khi dữ liệu môi trường được công khai và người dân có quyền giám sát, việc tuân thủ các quy định của các bên liên quan sẽ nghiêm ngặt hơn, hạn chế tình trạng bao che hoặc xử lý không công bằng trong các vụ vi phạm môi trường. Giải pháp cũng giúp giảm tiêu cực và vi phạm, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cộng đồng và phù hợp với xu thế quốc tế (Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc, các nguyên tắc của Hiệp ước Escazú 2021 và các chuẩn mực về quyền tiếp cận thông tin, tham gia và công lý trong lĩnh vực môi trường).
Việc mở rộng tiếp cận thông tin môi trường có thể thông qua các nền tảng số, cổng dữ liệu mở, giúp kết nối giữa nhà nước - người dân - doanh nghiệp - tổ chức khoa học trong giám sát và phản hồi.

Nên đề cập rõ cơ chế tăng cường chia sẻ và khai thác dữ liệu tài nguyên – môi trường (đất, nước, không khí, biển, đa dạng sinh học…) giữa các bộ, ngành, địa phương, cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp.
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, dữ liệu tài nguyên và môi trường là nền tảng cốt lõi cho nghiên cứu khoa học, hoạch định chính sách, quản lý tài nguyên quốc gia và phát triển kinh tế số xanh. Hiện nay, việc xây dựng cơ sở dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu biển, đất và không khí, còn phân tán, thiếu liên thông và chưa được chia sẻ hiệu quả.
Việc mở rộng chia sẻ dữ liệu sẽ tạo đột phá cho khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, bởi vì trí tuệ nhân tạo và mô hình dự báo hiện đại không thể tự tạo ra dữ liệu mà cần nguồn dữ liệu thực, đầy đủ và chính xác. Khi được chia sẻ có kiểm soát, dữ liệu này không chỉ phục vụ nghiên cứu cơ bản mà còn giúp nâng cao hiệu quả quản lý, dự báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, quy hoạch sử dụng tài nguyên hợp lý và phát triển bền vững.
B
Về bảo vệ môi trường và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Đề nghị thay thế các cụm từ định tính như khắc phục cơ bản tình trạng ô nhiễm bằng các chỉ tiêu định lượng, có tính ràng buộc pháp lý cao. Ví dụ: “Phấn đấu đến 2030, 100% các đô thị loại I trở lên phải có hệ thống quan trắc không khí tự động, công khai, liên tục và 100% nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt chuẩn, thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học, thể hiện trách nhiệm quốc gia và đóng góp cho nhân loại...
Các mục tiêu định tính, chung chung (như: khắc phục cơ bản, nâng cao) là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong thực thi. Mục tiêu định tính không tạo ra áp lực hành động, khó giám sát và không thể làm căn cứ để quy trách nhiệm người đứng đầu. DTVK đã thừa nhận tình hình ô nhiễm trầm trọng hơn, do đó cần các chỉ tiêu định lượng bắt buộc. Các chỉ tiêu về diện tích các khu vực được bảo vệ trên vùng biển còn rất thấp so với mục tiêu của chiến lược đặt ra (3-5%).
Tình trạng ô nhiễm bụi mịn PM2.5 tại thủ đô Hà Nội (ghi nhận 4 đợt ô nhiễm nặng năm 2024) và thành phố Hồ Chí Minh rất đáng báo động. Tỷ lệ tái chế rác thải nhựa rất thấp (27% trên tổng số 1,8 triệu tấn/năm). Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý đạt chuẩn hiện vẫn còn rất thấp (ước tính dưới 20%). Đối với rác thải nhựa, để hạn chế vấn đề môi trường này, văn kiện cần đưa ra các mục tiêu giảm thiểu rác thải nhựa cụ thể, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương và nhựa dùng một lần, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Đề nghị bổ sung: Phát triển công nghiệp môi trường (bao gồm công nghệ xử lý chất thải, tái chế, quan trắc, phục hồi hệ sinh thái) trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật cao, là động lực tăng trưởng mới; ban hành cơ chế khuyến khích mạnh mẽ kinh tế tư nhân tham gia đầu tư, nghiên cứu và phát triển; phát triển thị trường carbon nội địa và cơ chế tài chính xanh.
DTVK có nhắc đến thị trường tín chỉ carbon nhưng còn mờ nhạt về vai trò của khu vực tư nhân trong giải quyết ô nhiễm. Việc định vị công nghiệp môi trường là một ngành kinh tế sẽ hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa, biến thách thức ô nhiễm thành cơ hội tăng trưởng, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất.
Phát triển thị trường carbon nội địa và cơ chế tài chính xanh là công cụ quan trọng để huy động nguồn lực xã hội cho bảo vệ môi trường và thích ứng BĐKH, phù hợp với xu thế toàn cầu.
Sự thành công của các dự án điện rác ở nhiều địa phương cho thấy tư nhân hoàn toàn có thể giải quyết các vấn đề môi trường phức tạp nếu có cơ chế phù hợp (feed-in tariff, hỗ trợ đất đai...). Tiềm năng từ thị trường tái chế (nhựa, kim loại hiếm từ rác thải điện tử, pin...) là rất lớn trong bối cảnh kinh tế tuần hoàn.
Cần nhấn mạnh yêu cầu đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực môi trường, đồng thời đẩy mạnh cải cách phương thức quản lý, bảo đảm bộ máy tinh gọn, thống nhất, có năng lực dự báo, giám sát và thực thi hiệu quả chính sách môi trường trong bối cảnh chuyển đổi xanh, số hóa và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, công tác quản lý môi trường còn chịu sự điều phối của nhiều cơ quan với quy trình, tiêu chuẩn và cơ sở dữ liệu không thống nhất. Điều này gây khó khăn trong giám sát, báo cáo và xử lý vi phạm, làm giảm hiệu lực chính sách. Các mục tiêu giảm phát thải, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên và thích ứng BĐKH đòi hỏi đội ngũ cán bộ có kiến thức liên ngành, am hiểu khoa học, pháp luật và công nghệ hiện đại. Cán bộ môi trường cần được trang bị năng lực về phân tích dữ liệu, mô hình hóa, ứng dụng công nghệ số – đặc biệt là trong giám sát, cảnh báo sớm thiên tai, ô nhiễm, sự cố môi trường.
Phương thức quản lý cũng cần được cải cách để hướng tới “một đầu mối” hoặc có cơ quan điều phối liên ngành đủ thẩm quyền, tránh trùng lặp, tăng trách nhiệm và hiệu quả trong thực thi pháp luật về môi trường.
Nên bổ sung nội dung tăng cường đầu tư, xây dựng và hiện đại hóa hệ thống giám sát – quan trắc môi trường biển, trong đó ưu tiên phát triển các trạm quan trắc tự động, liên tục và tích hợp dữ liệu theo thời gian thực.
Hệ thống quan trắc môi trường biển hiện nay còn thưa, thiết bị lạc hậu, dữ liệu thu thập chưa liên tục và thiếu kết nối đồng bộ giữa các vùng biển. Việc tăng cường mạng lưới quan trắc tự động hóa sẽ giúp nâng cao năng lực điều tra, dự báo, đánh giá biến động tài nguyên và môi trường biển một cách thường xuyên, chính xác và kịp thời.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý tổng hợp vùng ven biển, cảnh báo sớm ô nhiễm, ứng phó sự cố môi trường, khai thác bền vững tài nguyên biển và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển xanh.
C
Về chủ động thích ứng biến đổi khí hậu và thực hiện Net Zero
Nên xác định rõ các chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính cho từng giai đoạn, phù hợp với cam kết của Việt Nam tại COP26 về mục tiêu “phát thải ròng bằng 0” vào năm 2050. Các chỉ tiêu cần được lượng hóa và gắn với các ngành phát thải chính như năng lượng, giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và chất thải.
Việc có chỉ tiêu cụ thể giúp định lượng tiến độ, minh bạch hóa nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Đây là cơ sở quan trọng để báo cáo với Liên Hợp Quốc và các đối tác phát triển. Lộ trình giảm phát thải rõ ràng sẽ định hướng đầu tư vào năng lượng tái tạo, công nghệ xanh, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, đồng thời hỗ trợ chuyển đổi sinh kế cho các nhóm dễ bị tổn thương trong ngành năng lượng truyền thống (than, dầu khí). Các chỉ tiêu giai đoạn cũng giúp Chính phủ, bộ ngành, địa phương dễ dàng xây dựng kế hoạch hành động, phân bổ ngân sách và giám sát kết quả theo từng chu kỳ.
Nên bổ sung nội dung về hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (như năng lượng mặt trời, điện gió, sinh khối, địa nhiệt, thủy triều...) theo hướng ổn định, minh bạch và bền vững.
Phát triển năng lượng tái tạo là xu thế tất yếu nhằm bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam vào năm 2050. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế, chính sách cho lĩnh vực này còn thiếu đồng bộ, thiếu tính dự báo và chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư.
Việc hoàn thiện chính sách, khung pháp lý và cơ chế giá điện rõ ràng, ổn định sẽ giúp thu hút đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích đổi mới công nghệ, phát triển nguồn năng lượng sạch, góp phần vào chuyển đổi năng lượng công bằng và phát triển kinh tế xanh, bền vững.
Đề nghị bổ sung giải pháp đột phá về tài chính, ban hành cơ chế đặc thù, vượt trội về hấp thụ và giải ngân các nguồn tài chính khí hậu quốc tế (như “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” (JETP), Quỹ Khí hậu Xanh...), đặc biệt là cơ chế cho khu vực tư nhân trực tiếp tiếp cận, vay vốn và được Chính phủ bảo lãnh tín dụng.
Đây là “điểm nghẽn” lớn của cam kết Net Zero 2050. DTVK nêu định hướng Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, cơ chế ưu đãi quốc tế nhưng thực tế đang ách tắc nghiêm trọng. Nếu không có cơ chế tài chính đột phá, Việt Nam không thể thực hiện chuyển đổi năng lượng. DTVK đã định hướng cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội cho các dự án lớn, thì năng lượng tái tạo phải được xem là ưu tiên hàng đầu trong nhóm này.
Chương trình JETP trị giá 15,5 tỷ USD cam kết cho Việt Nam nhưng tỷ lệ giải ngân gần như bằng 0. Các nhà đầu tư tư nhân về điện gió, điện mặt trời không thể tiếp cận vốn vay ưu đãi quốc tế do vướng mắc về cơ chế bảo lãnh của Chính phủ, cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) chậm được ban hành và các xung đột trong quy hoạch (Quy hoạch điện VIII).
Đề nghị bổ sung, cân bằng giữa giải pháp “cứng” và “mềm”: Phát triển hài hòa các giải pháp thích ứng công trình (cứng) với các giải pháp thích ứng phi công trình (mềm), bao gồm thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA)thích ứng dựa vào cộng đồng (CbA), ưu tiên các giải pháp thuận thiên.
DTVK hiện đang ưu tiên các giải pháp “cứng” (“phòng, chống sạt lở”, “hồ chứa nước”, “di dời dân”). Tuy nhiên, các giải pháp “mềm” (phi công trình) thường bền vững hơn, chi phí hiệu quả hơn và tạo ra nhiều lợi ích (bảo tồn đa dạng sinh học, sinh kế bền vững). Định hướng này cũng thống nhất với DTVK về “bảo tồn đa dạng sinh học”.
Tại đồng bằng song Cửu Long, thay vì chỉ tập trung xây kè bê tông cần kết hợp phục hồi và trồng mới rừng ngập mặn để giảm sóng, bảo vệ đê. Thay vì xây hồ chứa nước ngọt lớn cần thúc đẩy các mô hình canh tác thuận thiên (tôm-lúa) và các giải pháp trữ nước phi tập trung tại hộ gia đình.

Việc xem xét, bổ sung các kiến nghị nêu trên, đặc biệt tập trung vào việc hoàn thiện và thực thi các cơ chế tổ chức thực hiện sẽ góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa các định hướng chiến lược này.

566362086_1579409069880424_818006375580566094_n.jpg
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu” không còn là một lĩnh vực chính sách mang tính xã hội đơn thuần mà đã thực sự được nâng tầm trở thành một trong những trụ cột cốt lõi của phát triển bền vững. Ảnh: Vũ Quang

Các giải pháp như: định giá tài nguyên và dịch vụ hệ sinh thái theo cơ chế thị trường; thiết lập các chỉ tiêu định lượng bắt buộc về kiểm soát ô nhiễm; và ban hành các cơ chế tài chính đột phá cho chuyển đổi xanh và thực hiện cam kết Net Zero chính là chìa khóa để cụ thể hóa các định hướng chiến lược của Đảng.

Văn Hiền