Xã hội

‘Xáo bản’ 25 năm gieo chữ nơi phên dậu miền Tây xứ Nghệ

Văn Hiền 18/11/2025 08:53

(CLO) Hành trình 25 năm gieo chữ của cô “xáo bản” (tức người con gái của bản làng) Phạm Thị Mai Quyên bắt đầu từ một ước mơ rất trẻ thơ và dài bằng cả sự dấn thân của một đời người.

Nhân kỷ niệm 43 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 – 20/11/2025), Báo Nhà báo và Công luận trân trọng gửi tới quý bạn đọc tuyến bài “Cõng chữ vượt sông, gùi chữ vượt rừng”.

Xuyên suốt tuyến bài là những cô giáo người Kinh lặng lẽ ngược lên miền biên viễn – nơi đường đất còn dang dở, lớp học của con em đồng bào dân tộc thiểu số khi đông khi vắng, và mọi thứ đều thiếu thốn. Giữa những điểm trường chênh vênh trên núi, họ bám lớp bằng những việc tưởng chừng rất đời thường: kê lại chiếc bàn xiêu vẹo, dỗ dành đứa trẻ người Mông còn e dè với tiếng phổ thông, tỉ mẩn chuẩn bị từng trang giáo án dưới ánh đèn leo lét.

Chính sự kiên trì, âm thầm ấy đã giữ cho con chữ không rơi khỏi các bản làng xa xôi, đồng thời mở ra cơ hội để trẻ em dân tộc thiểu số tiếp cận tri thức, vươn tới thế giới rộng lớn hơn.

Sáng Thông Thụ phủ sương như một tấm khăn voan mỏng. Con đường đất đã được bê tông hóa nhưng những vết lồi lõm của mùa mưa vẫn còn sờ sờ dưới bánh xe máy. Người dân gọi nơi này là “đầu sóng ngọn gió” của huyện Quế Phong, một xã vùng biên, sát núi, sát rừng, sát những gian khó nhất của xứ Nghệ.

z7209144927652_144e2d452b43751124cbde9d0a5fe242.jpg
Cô giáo Phạm Thị Mai Quyên, giáo viên trường Tiểu học Đồng Văn 2 (xã Đồng Văn).

Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh cô giáo Quyên nhỏ bé với nụ cười hiền luôn có mặt từ rất sớm trong sân trường Tiểu học Đồng Văn. Gần 30 năm trước, cô giáo Quyên từ miền xuôi Diễn Châu, e ấp trong tà áo dài và giấc mơ bục giảng. Còn hôm nay, cô là “xáo bản”, là “cô giáo của bản em”, là người mà học trò và phụ huynh gửi gắm niềm tin như gửi gắm một người chị, người mẹ.

Ước mơ từ làng biển

Cô giáo Phạm Thị Mai Quyên sinh ra và lớn lên ở xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu(cũ). Thuở còn cắp sách tới trường, cô thường ngắm nhìn những cô giáo trong tà áo dài thướt tha, thấp thoáng trên sân trường tiểu học, lòng say mê ánh nhìn ấy thầm ước: “Sau này mình sẽ trở thành cô giáo”.

z7209144870741_86d09f62bf4151966d4b3d749cb16470.jpg
Hôm nay, cô giáo Quyên là “xáo bản”, là “cô giáo của bản em”, là người mà học trò và phụ huynh gửi gắm niềm tin.

Ước mơ từ tuổi thơ ấy dần được nuôi dưỡng bằng sự cố gắng không ngừng trong từng năm học, từng bước tiến qua ghế phổ thông, từng trang sách bài tập. Những lần nghe người lớn trong làng kể về cuộc sống vất vả ở miền núi, cô gái trẻ cảm thấy tò mò và thương dân bản nơi ấy vô cùng. Cuộc sống ở làng biển tuy cũng nhiều khó khăn, nhưng so với núi rừng thì vẫn còn nhiều thuận lợi.

Từ sự tò mò và lòng thương mến ấy, cô quyết tâm đăng ký vào trường Trung cấp Sư phạm, để một ngày được cầm tay em thơ gieo chữ nơi đại ngàn. Và sau khi tốt nghiệp, cô không ngần ngại viết đơn tình nguyện lên dạy ở Quỳ Châu, vùng biên giới xa xôi nhất của xứ Nghệ.

“Lên miền núi, tôi muốn tự mình chứng kiến cuộc sống của người dân, muốn hiểu, muốn giúp các em có cơ hội học tập như bao bạn đồng trang lứa ở miền xuôi”, cô chia sẻ, giọng trầm lắng.

Ngày đầu tiên – ánh mắt học trò in mãi trong tim

Lần đầu tiên đặt chân lên Trường Tiểu học Châu Hội 1, Xã Châu Hội, huyện Quỳ Châu(cũ), cô Mai Quyên vẫn nhớ từng chi tiết: những dãy nhà gỗ lụp xụp, lợp bằng lá cỏ và phên nứa, ẩn khuất dưới chân núi; những con đường mòn quanh co, gập ghềnh dẫn vào các bản. Nhưng điều in đậm nhất trong tâm trí cô chính là những em học sinh quần áo lấm lem, chân trần, ánh mắt ngây thơ nhìn cô như muốn truyền đạt điều gì đó mà chưa biết nói sao.

z7209144907235_079658a36c908782b877a03e7939a611.jpg
Cô giáo Mai Quyên phải học từng câu chào, từng từ cơ bản, từng phong tục tập quán từ các anh chị giáo viên và phụ huynh.

Ngày đầu, khó khăn ập đến không chỉ từ thiên nhiên mà còn từ con người: bất đồng ngôn ngữ. Trong trường có hơn 20 cán bộ, giáo viên, nhưng chỉ 4 người là dân tộc Kinh; học sinh thì 100% là con em dân tộc ít người; phụ huynh chủ yếu nói tiếng của dân tộc mình(Tiếng Thái). Việc giảng dạy bằng tiếng phổ thông gặp rất nhiều trở ngại.

Cô kể: “Tôi phải học từng câu chào, từng từ cơ bản, từng phong tục tập quán từ các anh chị giáo viên và phụ huynh. Mỗi ngày là một bài học mới, một hành trình tìm hiểu để các em hiểu và cảm nhận được tình thương của tôi”.

Từ cô giáo hợp đồng đến “cô Quyên thân yêu”

Trong hơn hai thập kỷ dạy học ở vùng đặc biệt khó khăn, cô từng trải qua biết bao thử thách: vật chất thiếu thốn, nỗi cô đơn nơi núi rừng, áp lực giảng dạy và cuộc sống mưu sinh. Có những lúc tưởng chừng bỏ cuộc, nhưng nhờ sự động viên từ đồng nghiệp và lòng thương học trò, cô vượt qua tất cả.

Với cô, dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức mà còn là đồng hành cùng học trò, để từng em hiểu bài, từng em tiến bộ từng ngày. Với học sinh miền núi, không thể dạy bằng sách giáo khoa một cách máy móc. Cô thường đưa bài học vào thực tế, để các em nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận và ghi nhớ. Cô phân loại học sinh theo trình độ, dành thời gian hướng dẫn cá nhân, khích lệ ngay những tiến bộ dù nhỏ nhất. Nhờ vậy, lớp cô chủ nhiệm hiếm khi có học sinh vắng học.

z7209144902241_f0eb018115a783df1bdd837a4bd8de40.jpg
Cô thường đưa bài học vào thực tế, để các em nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận và ghi nhớ.

Năm 2009, cô chuyển về trường Tiểu học Đồng Văn 2, xã Đồng Văn, huyện Quế Phong. Địa bàn xã Đồng Văn rộng, nhiều bản cách trường cả chục cây số, việc vận động học sinh đến lớp là một thử thách hàng ngày. Cô nhớ rõ Cụt Văn Doanh, học sinh người Khơ-mú, từng trốn học trên đồi vì tự ti sau khi ở lại lớp 1 ba năm. Cô cùng gia đình em và người dân đi tìm, lội qua sông, trèo lên đồi, cuối cùng phát hiện em nấp trong bụi rậm, sợ bị đánh. Nhờ lời động viên của cô, Doanh ngoan ngoãn trở lại lớp, và từ đó, cô luôn quan tâm, khích lệ em từng ngày cả về học tập lẫn vật chất. Hiện em đã trưởng thành, đi làm giúp gia đình.

Khi thiếu thốn không ngăn nổi con chữ

Học sinh Đồng Văn thiếu thốn đủ bề: quần áo, bút vở, thức ăn, áo ấm mùa đông. Cô Mai Quyên kể: “Mỗi năm học mới, tôi đi khảo sát hoàn cảnh từng em, rồi ra hiệu sách mua sách vở, dụng cụ học tập, bọc và nhãn từng quyển. Trong cặp luôn có bút, ngòi bút dự phòng. Khi thấy em nào chưa ăn sáng, tôi chạy ra mua bánh, hộp sữa để các em học tiếp”.

Cô còn đi xin quần áo cũ, chia cho các em để đảm bảo các em đến lớp đầy đủ, không bỏ học giữa chừng. Nhờ sự quan tâm tỉ mỉ này, các em miền núi có cơ hội học tập như bạn bè đồng trang lứa ở thành phố.

Sau hơn 25 năm, cô Mai Quyên nhận ra điều quý giá nhất: “Cái tình”. Tình thương của học sinh, phụ huynh, đồng nghiệp, sự quý mến của người dân – tất cả tạo nên động lực để cô gắn bó lâu dài. Người dân gọi cô là “Cô giáo của bản em”, hay “Xáo bản” – con gái của bản. Họ tôn trọng cô không phải vì vật chất, mà vì thấy cô tận tâm, chân thành và hết lòng vì con em họ.

Cô cũng là “người chị cả” trong trường, thường chia sẻ, động viên giáo viên trẻ vượt khó, truyền kinh nghiệm, giúp họ tự tin đứng lớp, yêu nghề và bền bỉ với công việc.

Những năm gần đây, cô Mai Quyên thường được phân công chủ nhiệm lớp 5 – lớp cuối cấp, cũng là “cửa ải” quan trọng nhất của bậc tiểu học. Đây là giai đoạn học sinh phải gom góp, hệ thống lại toàn bộ những gì đã học từ lớp 1 đến lớp 4, đồng thời làm quen với những yêu cầu mới, cao hơn, khó hơn.

Ở nhiều nơi khác, cuối lớp 4 là các em đã đủ điều kiện lên lớp, nghỉ hè rồi tháng Chín trở lại trường như một thói quen bình thường. Nhưng ở vùng núi sát biên giới như Thông Thụ, ba tháng hè lại là một “khoảng trống” đúng nghĩa.

Khái niệm “ôn luyện hè” với học trò miền núi gần như xa lạ. Hết năm học, trẻ theo bố mẹ lên rẫy, lên nương; đứa ở nhà trông em, đứa theo ông bà đi chăn trâu…

z7234140376624_2cb3bde527902f680e5a5b7c819116f9.jpg
Thăm nhà em Lương Bảo An năm học 2025 - 2026.

Bàn tay dính nhựa cây quen thuộc hơn cây bút. Sách vở, báo chí, tivi... những thứ tưởng chừng rất đỗi bình thường nơi phố thị với các em lại xa xỉ lắm. Có em cả mùa hè không chạm vào một trang sách. Có em bố mẹ đi làm ăn xa, gửi lại ông bà già yếu, không biết chữ; suốt ba tháng trời, xung quanh em không có một người nào có thể hướng dẫn bài vở. Mà trẻ tiểu học vốn “lâu nhớ chóng quên”, nên chỉ sau một mùa nắng, phần lớn kiến thức các em học được trong năm đã rơi rụng gần hết.

Bởi vậy, mỗi đầu năm học với cô Mai Quyên chẳng khác gì “dựng lại nền móng” từ con số gần như bằng không. Việc đầu tiên cô làm luôn là khảo sát và phân nhóm học sinh: nhóm còn giữ kiến thức, nhóm hổng nhiều, và nhóm gần như phải học lại từ đầu. Rồi từ đó mà chọn cách dạy phù hợp.

Ở miền núi, rào cản lớn nhất là ngôn ngữ. Ở nhà, các em nói tiếng mẹ đẻ; tiếng phổ thông chỉ đủ để chào hỏi. Vốn từ ít, cách diễn đạt nghèo nàn, các em càng thiếu cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Nếu giáo viên chỉ đứng lớp theo khuôn của sách giáo khoa, hoặc giảng đúng từng câu từng chữ của sách hướng dẫn thì học sinh nơi đây sẽ mù mờ, khó mà hiểu bài cho trọn vẹn.

z7234152649113_34b895276824b5c58f1530e40fc7792b.jpg
Kiểm tra việc tự học ở nhà của em Vi Thanh Thế.
z7234152660585_60e1556afb35e0fbbe86341fe0774822.jpg
z7234152662102_a4810559aed47177727152c56f86a2ed.jpg

Thế nên, cô chọn cách đưa bài học “đi ra khỏi trang sách”. Cô gọi đó là “đưa bài vào đời sống”. Dạy từ thì chỉ phương hướng, cô lấy ngọn núi sau trường, bờ suối đầu bản làm ví dụ. Dạy toán đo độ dài, cô mang cả chiếc gùi của học trò vào lớp.

Dạy tập làm văn miêu tả, cô cho các em kể về nương ngô của nhà mình, về con trâu mà mỗi sáng các em vẫn dắt ra bãi. Những hình ảnh quen thuộc, những thứ các em có thể nhìn – chạm – nghe bằng chính kinh nghiệm của mình khiến bài học trở nên sáng rõ, dễ hiểu, dễ nhớ hơn rất nhiều.

Sau mỗi tiết dạy, cô lại dành thời gian riêng cho từng nhóm đối tượng. Nhóm khá giỏi được giao bài tập thảo luận, tự hoàn thành nhiệm vụ; còn cô ngồi lại với nhóm yếu kiên nhẫn, tỉ mỉ, cầm tay từng em hướng dẫn.

Lớp học vùng cao vốn đa dạng trình độ, chỉ khi chia nhóm, chia việc như thế, các em mới không bị bỏ lại phía sau. Và cô Mai vẫn kể: “Không có cách nào khác, chỉ có ngồi xuống cạnh từng đứa, nói bằng thứ ngôn ngữ chúng hiểu nhất, thì chữ mới ở lại với các em được.”

Những học trò đặc biệt – dấu ấn không phai

Trong suốt hành trình, nhiều học trò khiến cô xúc động. Hà Phong Đăng, học sinh lớp 2B bản Na Chảo, sinh ra trong gia đình nghèo, mắc bệnh suy dinh dưỡng và suy tim, mẹ bỏ đi. Dù cơ thể yếu, em vẫn kiên trì đến lớp. Nay Đăng học lên lớp 10, dù nhỏ bé, vẫn theo kịp bạn bè.

z7234144921632_8319ae64a08f49b37469ff03902736f7.jpg
Với cô, người thầy vùng biên không chỉ là dạy chữ.

Một trường hợp khác là Lang Mạnh Hùng, học sinh lớp 5A năm học 2023-2024. Thông minh nhưng tự kiêu và cẩu thả, Hùng từng chỉ được công nhận kết quả trung bình trong các kỳ thi. Cô đã nói chuyện riêng, chỉ ra khuyết điểm, đưa ra những tấm gương thành công, giúp em nhận ra và thay đổi. Nhờ vậy, Hùng trở thành thủ khoa trong kì thi tuyển sinh vào lớp 6 của Trường PTDTNT huyện.

Với cô, người thầy vùng biên không chỉ là dạy chữ. Trước hết là dạy học sinh đọc, viết, tính toán, biết sống tốt. Khi các em trở thành công dân có ích, các em sẽ biết giữ gìn bản sắc dân tộc, yêu quê hương đất nước.

Nhờ cách dạy tận tâm, lớp học của cô thường đạt thành tích cao, nhiều học sinh thi đạt vào Trường PTDTNT huyện, có em đạt thủ khoa. Mỗi chuyến đò cô chèo sang sông chở tình yêu thương, hy vọng và ước mơ của gia đình các em.

Sau gần 30 năm, Đồng Văn đã trở thành quê hương thứ hai của cô. Người dân xem cô như “Xáo bản”, tình cảm chân chất, sự quan tâm của họ bù đắp mọi thiếu thốn vật chất. Cô kể: “Một lần trời lạnh, hàng xóm đến gọi xem tôi có gặp vấn đề gì không. Tôi xúc động vô cùng.”

Vùng biên này cũng “dạy ngược” cho cô những bài học về cuộc sống: chân chất, hiền lành, sẵn sàng giúp đỡ người khác. Những giá trị này khiến cô không muốn rời xa nơi đây.

z7234133869269_e4e278a13f0e15c51f9bc280a62129d1.jpg
Trong suốt hành trình, nhiều học trò khiến cô xúc động.
z7234132913273_027f32831192d20ff00c85c47c787c22(1).jpg
Cô giáo Quyên là 1 trong 80 thầy cô tiêu biểu được tuyên dương trong chương trình Chia sẻ cùng thầy cô năm 2025.

Ước mơ lớn nhất của cô là các học sinh có cuộc sống đầy đủ, ăn no mặc ấm, để tiếp nhận kiến thức tốt hơn. Cô gửi thông điệp đến giáo viên trẻ: hãy yên tâm lên vùng cao, vì các em thơ đang trông chờ, và các bạn là những người lái đò tương lai.

Cô cũng mong muốn Đảng, Nhà nước quan tâm hơn đời sống giáo viên miền núi, vì họ phải đối mặt với thiên tai, đường đi nguy hiểm, nước sông suối dâng cao, trong khi thu nhập còn hạn chế.

Đối với cô Mai Quyên, phần thưởng không phải bằng khen hay danh hiệu, mà là thấy học trò thành đạt, trở thành người có ích, thấy những học trò ngày xưa trở thành bác sĩ, thầy cô tiếp tục gieo chữ.

“Vui vì các em thành công, hạnh phúc vì thấy mình góp phần ươm mầm tương lai”, cô Mai Quyên bộc bạch.

Trong ánh mắt cô Mai Quyên, những năm tháng gieo chữ nơi vùng biên không chỉ là nghề, mà là sứ mệnh sống, một hành trình vất vả nhưng hạnh phúc, để từng em học sinh hiểu bài, từng học trò trưởng thành, và để chính cô cảm nhận sâu sắc giá trị của tình người, tình thầy trò và sự hy sinh âm thầm. Ở Đồng Văn, cô đã tìm thấy tình thương, sự chân thành và niềm tin, để gắn bó mãi với đại ngàn Quế Phong.

Văn Hiền