Như hoa hướng dương hướng về ánh sáng- Kỳ 1: Phải sống

Lời toà soạn: Khi nói về số phận của người nhiễm HIV, người ta hay nhắc đến sự kỳ thị như một phần không thể thiếu trong hành trình ấy. Ngoài sự vật lộn với bệnh tật, họ còn phải “chiến đấu” với ánh nhìn, sự ghẻ lạnh của người đời như một phần tất yếu với bất kỳ người có H nào…
Nhưng hôm nay, chúng tôi sẽ kể về một câu chuyện khác, câu chuyện của ánh sáng, ở một xã miền núi thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang cũ (nay thuộc xã Tam Tiến, tỉnh Bắc Ninh) – một nơi vốn không có nhiều ánh đèn như phố thị nhưng luôn lấp lánh tình người. Ở đây cũng không có chỗ cho sự kỳ thị, hoặc nếu có cũng sẽ nhanh chóng bị ánh sáng của sự nhân văn và lòng trắc ẩn đẩy lùi. “Dù mặt trời có ẩn sau mây, hướng dương vẫn luôn hướng về phía sáng” là câu châm ngôn được cô Nguyễn Thị Hoàn tựa vào mỗi khi gặp chông chênh hay sóng gió. Câu chuyện của cô khiến chúng tôi nghĩ đến hình ảnh hoa hướng dương - biểu tượng của sức sống mãnh liệt, dù gặp bất cứ điều gì thì với khát vọng và nỗ lực vươn lên, mặt trời vẫn sẽ luôn ở đó...
Như loài hoa luôn quay về phía ánh sáng, dù mây đen hay bóng tối có che khuất mặt trời, hơn 20 năm sống chung với HIV và chứng kiến sự ra đi của chồng, con nhưng cô giáo Nguyễn Thị Hoàn chưa bao giờ ngừng hi vọng. “Tôi phải sống thay cuộc đời của chồng, con và em trai tôi” chính là điểm tựa để chị Nguyễn Thị Hoàn kiên cường đối diện với nghịch cảnh, đồng thời không ngừng toả sáng để truyền đi năng lượng tích cực và cảm hứng đến những người cùng cảnh.

Chúng tôi đến trường THPT Mỏ Trạng vào một ngày mưa gió cuối thu đầu đông. Ngôi trường tựa lưng vào ngọn đồi, địa thế dốc nên trận lũ lịch sử từ cơn bão số 10 và số 11 vừa qua đã trở thành “tấm khiên” để trường không chịu cảnh ngập lụt như phần lớn xã Tam Tiến. Nơi đây cũng chở che cho nhiều mảnh đời thiệt thòi, bất hạnh là các em học sinh khó khăn, khuyết tật và người từng không may nhiễm HIV.
Được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà trường, chúng tôi đã gặp gỡ, trò chuyện với cô giáo Nguyễn Thị Hoàn, giáo viên Văn, tổ trưởng bộ môn.
Cô giáo Hoàn lúc này đang đứng lớp. Chúng tôi ngồi bên ngoài chờ đợi, lặng lẽ quan sát lớp học và bài giảng của cô. Hôm nay, cô giảng bài đọc hiểu trong chương trình Văn lớp 10, bài: “Xuý Vân giả dại”. Học sinh như thường lệ chăm chú ngồi nghe, ghi chép bởi giờ Văn cô Hoàn là môn học được yêu thích của các em học sinh.
Nhiều năm nay, cô là giáo viên giỏi của trường, lại được trời phú cho chất giọng truyền cảm, gương mặt phúc hậu, vóc dáng thon thả và mái tóc đen dài - quá nhiều “ưu đãi” để làm nên hình mẫu của một nhà giáo được ngưỡng mộ trong mắt học trò. Nhìn cô giáo và những gì nghe kể trước đó, chúng tôi không thể gạt đi suy tư rằng nếu không có cú sốc đầu đời từ người chồng lây bệnh, cuộc đời cô giáo Hoàn chắc phải “hồng phận” lắm chứ không éo le như cái đúc kết “hồng nhan bạc phận” xa xưa…
Gương mặt phúc hậu nhưng luôn phảng phất nỗi buồn do trải qua nhiều thăng trầm tháng năm, chỉ khi cười - nụ cười toả nắng khiến người đối diện cảm như sóng gió chưa từng ngang qua cuộc đời chị…
Cuộc trò chuyện đưa chúng tôi lùi về quá khứ, nơi là ngọn nguồn của những chuỗi ngày biến cố.
Năm 2000, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm 2, chị được phân công về trường Mỏ Trạng, lúc đó vẫn là trường cấp 2 - 3 với dãy nhà cấp 4, hẻo lánh và rất ít học sinh.
“Tôi còn nhớ, ở nhà có một cánh cửa gỗ, tôi thường dùng than củi để viết lên đó, giả vờ như có những học trò ngồi dưới và tôi đang giảng bài. Cứ nghĩ lớn lên sẽ có nhiều ngã rẽ nhưng cho đến tận năm cấp 3, niềm đam mê ấy vẫn nguyên vẹn. Tôi vẫn khát khao trở thành giáo viên, đặc biệt là giáo viên Ngữ văn”, chị Hoàn tâm sự.

Suốt ba năm cấp 3, chị đều là học sinh giỏi của lớp chọn Văn. Khi thi đại học, chị thi đỗ trường Luật và Đại học Sư phạm 2 ở Xuân Hòa (nay là tỉnh Phú Thọ). Hai hướng đi mở ra trước mắt: Học luật thì đồng nghĩa được lên Hà Nội, mở ra bầu trời rộng lớn; chọn sư phạm thì không mất học phí, lại còn có học bổng và cũng dễ tìm việc hơn, cũng là cách để bố mẹ bớt đi một phần gánh nặng khi phải nuôi ba chị em bằng đồng lương ít ỏi.
Sau khi tốt nghiệp, chị chọn về quê để giảng dạy, chấp nhận làm xa nhà 20 cây số với nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ đây, định mệnh cuộc đời bắt đầu mở ra. Có hạnh phúc, niềm vui như trang giấy mới khi lần đầu được đứng trên bục giảng nhưng cũng đồng nghĩa với đó là những bi kịch.
Chị bảo, trường Mỏ Trạng chính là "mối tình đầu" và cũng là tình cuối. Dù vậy, nhớ lại ngày đầu đặt chân đến trường Mỏ Trạng, chị không khỏi ngạc nhiên trước sự khó khăn thiếu thốn. Học sinh ở đây đa phần là dân tộc thiểu số, những học sinh khá giỏi đều lên trung tâm huyện học nên dạy ở đây không chỉ là chuyện cơ sở vật chất nghèo nàn mà còn là sự vất vả để các em đạt được thành tích đề ra.
Nhưng rồi chị nghĩ, các thầy cô đi trước, những người thành lập, gây dựng trường từ những ngày đầu thành lập (năm 1961) với khó khăn hơn thế nhưng họ vẫn bám trụ. Bản thân chị mới ra trường, chỉ cần có việc làm ổn định là may mắn rồi. Hơn nữa, tuổi trẻ mà, lòng nhiệt huyết và khát khao chinh phục khiến người ta không quá sợ thử thách...

Về trường Mỏ Trạng dạy, chị tình cờ gặp lại anh Nguyễn Chí Dũng - bạn học cùng trường từ thời cấp 3, hơn chị 1 tuổi. Một cô giáo dạy Văn cấp 3, lại xinh đẹp, chịu thương chịu khó hẳn nhiên là niềm mơ ước của rất nhiều người, trong đó có anh Dũng. Anh chỉ học hết cấp 3 nhưng không vì thế mà chị cho “không môn đăng hộ đối”. Trái lại, thấy anh hiền lành, chịu khó làm việc ở cửa hàng sửa chữa xe máy và phụ giúp bố mẹ bán hàng tạp hóa nên chị càng thương anh. Thêm nữa, thời gian đó sức khoẻ của chị không tốt nên thường xuyên phải vào bệnh viện. Những khi ấy, bạn trai và gia đình của anh luôn túc trực chăm sóc chị như con cái trong nhà. Chính sự ân cần ấy đã khiến cho tình cảm của hai người ngày càng gắn bó.

Nhưng người ngoài nhìn vào thì nói chị mù quáng, đến mức người yêu nghiện ma tuý mà không biết. Biết rồi, thay vì từ bỏ thì chị lại thấy thương hơn. “Ngày đó, cái chết trắng len lỏi khắp làng quê, em trai tôi cũng trượt ngã vào vòng xoáy ấy. Hơn ai hết, tôi hiểu rõ nỗi đau của người thân khi có người nghiện khủng khiếp thế nào. Thay vì xa lánh, họ cần được quan tâm, yêu thương để làm lại cuộc đời. Tôi tin tình yêu của mình sẽ cảm hóa và khiến anh thay đổi”, chị nhớ lại.

Đầu năm 2001, hai người làm đám cưới trong sự chúc phúc và cả sự ngờ vực của xóm giềng. Còn chị vẫn tràn ngập niềm tin vào ngày mai tương sáng, đặc biệt khi đứa con đầu lòng chào đời. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, hạnh phúc làm mẹ của chị chỉ được tính bằng ngày vì sau đó là những chuỗi dài chăm con ốm đau liên miên. Thuốc thang mãi không khỏi, chị mới đưa con vào viện khám và nhận tin sét đánh: Hai mẹ con đều dương tính với HIV. Chồng chị đã nhiễm HIV mà không biết, để rồi lây truyền sang vợ và đứa con thơ khi mới lọt lòng.
Khi chồng còn đang ở trại cai nghiện thì cô con gái 4 tháng tuổi qua đời. Nỗi đau dần nguôi ngoai khi chồng chị cai nghiện thành công, nhờ sự quyết tâm của anh và sự động viên của chị. Nhưng đúng như người ta nói, “cái gì cai được chứ ma túy thì khó như lên giời” từng khiến chị kịch liệt chống trả thì nay đành phải thừa nhận trong bất lực. Sau 30 ngày giữ sạch lưới, chồng chị chính thức “tái hoà nhập”, không phải với xã hội mà với cộng đồng người nghiện liên tục vẫy gọi.
Tháng 4/2005, chồng chị mất, không phải vì HIV mà vì nghiện. Tiễn chồng hôm trước thì hôm sau người em trai cũng qua đời với nguyên nhân tương tự. Chất kích thích đã tàn phá nội tạng khiến chồng và em trai qua đời trong đau đớn, không chỉ với người ra đi mà cả với người ở lại, chỉ khác là nó âm ỉ nhưng để lại dư chấn lâu dài và nghiệt ngã.
3 chiếc khăn tang trong 4 năm chưa phải là khoảng thời gian khó khăn nhất đối với cô giáo Nguyễn Thị Hoàn. Nỗi đau tinh thần còn chưa kịp nguôi thì nỗi đau thân xác ầm ập tới: Bệnh tật, ốm đau liên miên. Lúc đó, chị chưa được tiếp cận với thuốc ARV (thuốc kháng HIV, ức chế sự nhân lên của virus, duy trì nồng độ virus trong máu ở mức thấp nhất có thể) nên sức khỏe càng suy giảm nghiêm trọng.
Năm 2006, chị phát hiện một khối u ở cổ tử cung. Sự mặc cảm, nỗi lo sợ khi biết mang trong mình căn bệnh HIV đã khiến chị e ngại trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. “Tôi sợ biến chứng của khối u, sợ cơ địa yếu của mình (hay bị nôn và thiếu máu từ nhỏ), sợ sức đề kháng kém sẽ ảnh hưởng đến việc phẫu thuật. Quan trọng nữa là sợ người HIV sẽ bị từ chối mổ...”.
.jpg)
Từ suy nghĩ đó, chị chọn sống chung với bệnh tật và những cơn đau đớn kéo dài. Có những lần lên lớp, cơn đau hành hạ nhưng chị vẫn cắn răng chịu đựng để hoàn thành bài giảng.
Đến năm 2009, chị suýt chết vì bị khối u chèn ép, phải nhập viện cấp cứu. Lúc này, khối u đã to lên gần 1 kg. Ca phẫu thuật được thực hiện tại Bệnh viện Phụ sản Bắc Giang (cũ) và sau đó phải chuyển lên Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Tại đây, những nỗi lo trước đó của chị được tan biến. Ca mổ kéo dài nhiều tiếng đồng hồ đã được thực hiện thành công. Các bác sĩ ở bệnh viện tỉnh và Bệnh viện Phụ sản Trung ương đều tận tình chữa trị, tư vấn, tiếp thêm sức mạnh để chị vượt qua bệnh tật.
“Ngày tôi nằm ở phòng cấp cứu, người thân túc trực ở bên sẵn sàng truyền máu khiến tôi vô cùng xúc động. Khát vọng sống lại càng thôi thúc”, chị nhớ lại. Sau khi mổ, cùng với việc được tiếp cận thuốc ARV đều đặn hơn, sức khỏe chị dần cải thiện.

Hỏi chị, trong những năm gặp biến cố dồn dập như vậy, điều gì để chị nương tựa mà vượt qua?
Chị cười bảo, “nhiều lúc nghĩ lại tôi cũng thấy phục mình thật. Đau mãi rồi nó cũng thành quen thì phải… Ngoài sự giúp đỡ của mọi người thì đó chính là phải dựa vào chính bản thân mình".
Nhiều người nghĩ mắc HIV thì sẽ sống thu mình, khép kín lắm nhưng chị luôn xác định hoà đồng, chủ động và mở lòng với tất cả mọi người. Theo chị, để vượt qua nỗi đau HIV, sự kỳ thị của mọi người thì những người nhiễm HIV phải không tự kỳ thị. Thay vào đó, hãy khẳng định giá trị bản thân nhiều hơn, sống cởi mở, chân thành thì dần dần mọi người sẽ hiểu. Mọi sự kỳ thị đều xuất phát từ nỗi sợ, mà cái sợ là do thiếu kiến thức. Mình phải chủ động cung cấp thông tin để mọi người xung quanh hiểu. Khi hiểu rồi thì họ sẽ không sợ và dần đón nhận mình.

Ngoài ra, môi trường sống cũng chính là “liều thuốc” thần kỳ mà chị may mắn có được. So với rất nhiều cộng đồng HIV ngoài kia, chị vẫn có một mái ấm, có công việc để đam mê, tình yêu thương của mọi người và các em học sinh luôn dang rộng vòng tay. Vì thế, trong chị chưa bao giờ xuất hiện hai chữ tuyệt vọng.
“Buồn là có, khóc cũng nhiều đêm ướt gối. Con người mà, ai cũng có những phút giây yếu lòng huống chi mình là phụ nữ. Người chồng con đàng hoàng, không biến cố lớn mà nhiều khi còn phải khóc, phải đau khổ… Nếu khóc được cũng tốt, sợ nhất là đến lúc không cả dám khóc nữa thì mới thực sự là đơn độc. Những lúc yếu mềm thì khóc một lúc thôi, chứ không bi lụy hay chìm đắm trong cơn bĩ cực.
Tôi biết những người trong hoàn cảnh như tôi từng không ít lần nghĩ đến cái chết nhưng với tôi điều tiêu cực đó chưa bao giờ hiện diện. Ngay cả lúc đau đớn nhất tôi cũng chưa bao giờ tuyệt vọng!

Tôi quan niệm, khi đã rơi vào hoàn cảnh bi đát nào đó thì chỉ để mất một thứ thôi, đừng để mất thêm thân tâm, sức khoẻ của chính mình. Bây giờ mình lại bi lụy, chán nản, lại sống không tích cực thì sẽ mất nhiều thứ hơn, nên không còn cách nào khác là phải tích cực lên. Tôi còn trách nhiệm với mẹ già và người chị gái phát triển không bình thường, còn công việc vô cùng đam mê nữa nên không cho phép mình gục ngã. Tôi còn phải sống thay cuộc đời của chồng, con và em trai tôi”.
Cùng với ý chí và động lực trong công việc, chị Hoàn còn tìm đến đạo Phật để tìm sự an ủi trong đời sống nội tâm. Nhờ có đạo Phật, chị không còn trách số phận nghiệt ngã. “Cũng giống như người mắc nợ thì phải trả. Từng biến cố đến là cách tôi đang tất toán dần những khoản vay. Cuộc đời con người đều có nhân quả của kiếp trước và cả kiếp này. Kiếp trước có thể mình mắc nợ thì kiếp này phải trả. Cứ nghĩ như thế tôi thấy nhẹ lòng hơn rất nhiều”, chị tâm niệm.

Hỏi chị Hoàn, khi biết mình bị nhiễm HIV từ chồng, dẫn đến đứa con vừa chào đời cũng vắn số, rồi trở thành goá phụ ở tuổi 25, vết thương lòng quá lớn như vậy thì lúc đó có hận chồng không? Chị bình thản: “Chưa bao giờ tôi có cảm giác đó. Buồn thì có nhưng oán hận thì không. Sau buồn là đến cảm giác thương. Tôi thương bố mẹ hai bên vì phận làm con chưa báo đáp được gì đã làm khổ ông bà”. Vì thế, khi chồng mất, tôi vẫn đi lại với gia đình nhà chồng để an ủi, trò chuyện với ông bà như bổn phận dâu con. Nhiều người bảo có còn mối liên hệ gì nữa đâu mà phải đi lại? Nhưng tôi nghĩ, người ta từ xa lạ mà kết nghĩa, nhận con nhận mẹ, trong khi mình vẫn là con dâu, cũng có bị ghẻ lạnh đâu thì sao phải xa cách? Suy cho cùng ông bà cũng thiệt thòi nhiều thứ, thiệt con thiệt cháu, cũng chung nỗi đau như mình mà”, chị nói.
.jpg)
Con trai mất sớm, bố mẹ chồng lại càng thương chị hơn. Mỗi khi chị về thăm ông bà lại khuyên “nếu gặp ai thương mình thật lòng thì con cứ đến với người ta”.
Những năm trước sức khoẻ chị kém, bệnh đau đầu hành hạ liên miên, chính bố chồng là người chữa cho chị vì ông giỏi về đông y. Đó cũng là một phần nguyên nhân lúc trước biết chồng nghiện nhưng chị không chọn cách từ bỏ như lẽ thường. Nếu không phải do cơn lốc ma tuý càn quét, với sự hiền lành, chăm chỉ và tốt tính, anh Dũng chắc chắn sẽ là người chồng, người cha tốt để chị dựa vào.
Nghe kể đến đây, bất giác chúng tôi nghĩ đến bài giảng “Xuý Vân giả dại” mà chị vừa giảng cho học sinh.
Xuý Vân là con gái của viên huyện Tể đẹp người, đẹp nết được gả cho Kim Nham - một anh thư sinh nghèo hiếu học. Cuộc hôn nhân ép buộc không có tình yêu đã đưa cuộc đời nàng đến một tấn bi kịch. Sau khi về nhà chồng, Kim Nham phải lên Tràng An dùi mài kinh sử để Xúy Vân ở nhà bơ vơ trong sự ghẻ lạnh và coi thường của gia đình. Vì quá buồn tủi và khao khát tìm kiếm hạnh phúc của đời mình nàng đã tin theo Trần Phương, hắn bày kế xúi Xúy Vân giả điên để được tự do thoát khởi nhà chồng. Nhưng không ngờ rằng Trần Phương là một tên “Sở Khanh”, đểu cáng bỏ lại nàng, khiến nàng tuyệt vọng từ giả điên thành điên thật.
Câu chuyện là sự thương cảm cho thân phận người phụ nữ không có quyền được lựa chọn, bị lễ giáo phong kiến trói buộc. Việc “giả dại” là cách Xúy Vân được sống thật với lòng mình và thể hiện khát vọng: Dù trong tăm tối, con người vẫn mang trong mình ánh sáng của nhân tính và thiện lương.
Câu chuyện của cô giáo Nguyễn Thị Hoàn thì không có chút bóng dáng nào của nàng Xúy Vân nhưng hiểu rộng ra về thân phận của những người bị HIV từng mặc cảm trong bóng tối của sự kỳ thị thì có những nét tương đồng, đó là khát vọng sống. Con người dù ở bất kỳ hoàn cảnh xã hội và địa vị nào cũng cần được tôn trọng, được đón nhận ánh sáng của tình yêu thương và sự cảm thông. Như cách mà cô giáo Nguyễn Thị Hoàn được nhận và trao đi, sẽ được chúng tôi kể sau đây trong bài viết tiếp theo.
"HIV là từ viết tắt của loại virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Khi vào cơ thể người, loại virus này tấn công và phá vỡ hệ thống miễn dịch, dẫn đến tình trạng gọi là AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Nếu không có một hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, những người bị AIDS còn dễ bị mắc phải những tổn thương khác, thường gây ra nhiễm trùng, dẫn đến tử vong".
Kỳ 2: Mặt trời trong bóng tối