Dự thảo Luật tiếp cận thông tin dự kiến trình Chính phủ trong tháng 7-2009, trình Quốc hội lần đầu vào cuối năm 2009 và thông qua vào đầu năm 2010 sẽ trở thành cột mốc quan trọng trong việc thực hiện dân chủ, thể hiện tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nhà báo & Công luận đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Nguyễn Đăng Dung, giảng viên khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, thành viên Ban Soạn thảo Dự án Luật Tiếp cận thông tin.
Ít có luồng thông tin phản biện
Thưa ông! Tại sao ở nước ta, quyền được tiếp cận thông tin đã được xác định trong Hiến Pháp 1992 nhưng bây giờ mới được cụ thể hóa thành luật?
Đúng là trong Điều 69 của Hiến pháp năm 1992 đã có quy định quyền được thông tin của công dân. Theo quy định trong Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam đã tham gia, quyền được thông tin là một phần của quyền tự do ngôn luận. Thực ra quyền tự do thông tin được quy định trong Hiến pháp 1992 là một quyền rất mới so với trước đây (Hiến pháp năm 1959, 1980 chưa có quy định về quyền này).
Nhiều nước trên thế giới đã cho ra đời luật này từ rất lâu rồi, thậm chí tới 300 trăm năm nay như Thụy Điển. Nhìn thẳng vào thực tế mà nói, chúng ta đã quá chậm trễ?
Đúng vậy!
Ông có thể nói rõ vì sao ta lại có sự chậm trễ như thế?
Vì chúng ta chịu ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử. Trong hai cuộc kháng chiến, yêu cầu về thông tin là phải được bảo mật. Các phong trào ba không: không nói, không biết, không tin trong giai đoạn đó được coi là “quốc sách”. Rồi đến thời kỳ tập trung bao cấp, chúng ta cũng chỉ có thông tin một phía. Trong lịch sử phát triển của nước ta hầu như chỉ có nhu cầu tuyên truyền một chiều từ Trung ương xuống cho người dân. Người dân luôn là người bị động. Đó dường như là một thói quen “sâu rễ bền gốc” tới tận bây giờ.
Đó có phải là nguyên nhân dẫn đến một thực tế đang diễn ra: thông tin thường được tuyên truyền theo một phía và rất ít thông tin phản biện, thưa ông?
Có thể nói thế này, thông tin bao giờ cũng phải từ hai phía: Thứ nhất là sự tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với người dân. Thứ hai là tâm tư, nguyện vọng của người dân; đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân về hành vi sai trái của cán bộ, công chức Nhà nước… Vế thư hai này hiện chưa thực sự được coi trọng. Tức là ít có phản biện từ phía người dân. Các thông tin được công khai cho đến hiện nay thường là trên tinh thần “hướng lên trên” mà quên “nhìn xuống dưới”.
Bưng bít thông tin là nuôi dưỡng tham nhũng
Ông từng nói, quyền tiếp cận thông tin là thứ quyền thời thượng, quyền quý tộc và cũng có những người đánh giá rằng đó là thứ quyền khá nhạy cảm. Có phải vì thế, việc tiếp cận thông tin của người dân bị cản trở, bởi những lý do cũng được xếp vào loại “nhạy cảm”?
Thông tin về nguyên tắc là phải mở, đầu tiên là Chính phủ phải mở, cơ cấu tổ chức phải mở, các quyết định phải mở để mọi người đều biết, và dễ tiếp cận khi cần thiết.
Trong bộ máy nhà nước có 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, các cơ quan hành pháp là thiếu sự “mở” nhất bởi chúng ta hoạt động vẫn theo cơ chế thủ trưởng, quyết định được đưa ra không có sự bàn bạc hoặc có bàn bạc đi chăng nữa, thì khi quyết định, người thủ trưởng vẫn là người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân. Thế nên mới có chuyện, trong khi luật quy định tham nhũng 500 triệu có thể dẫn tới án tử hình thì các quyết định hành chính có khi làm mất của người dân hàng tỷ đồng, thu lợi cho một cá nhân hàng tỷ đồng thì lại bị “ỉm” đi và chẳng có ai chịu trách nhiệm cả. Câu trả lời chính là sự bưng bít thông tin của một số cơ quan công quyền.
Ông có cho rằng, chuyện bưng bít thông tin chính là mảnh đất nuôi dưỡng tham nhũng và lạm quyền?
Việc bưng bít thông tin diễn ra rõ nhất trên các lĩnh vực đất đai, đền bù giải tỏa, dự án ưu đãi… Lòng dân hiện nay còn bất an vì tham nhũng, vì khiếu nại đất đai. Mà nguyên nhân chủ yếu của các vụ khiếu kiện đất đai là do chính quyền không thông tin kịp thời, đầy đủ đến dân. Hay như trong vấn đề quy hoạch đất đai, đặc biệt là giai đoạn trước đây, vì không công khai, minh bạch nên nhiều đối tượng đã trục lợi rất lớn từ việc này.
Cuộc chiến giữa công khai và bí mật
Ông đã từng thẳng thắn: Quyền tự do thông tin rải rác trong các luật nhưng không “lại” được với Pháp lệnh Bí mật của Nhà nước. Ông có thể nói cụ thể hơn về điều này?
Tôi hình dung cái Pháp lệnh Bí mật là một pháo đài kiên cố “bất khả xâm phạm” còn quyền tự do thông tin lại là một căn nhà tranh nhỏ bé, tuềnh toàng… Chúng ta không những có Pháp lệnh Bí mật Nhà nước, mà còn có cả những hướng dẫn của các văn bản dưới luật rất cụ thể để các cơ quan thực th nhiệm vụ giữ gìn bí mật Nhà nước. Nhưng điều đáng nghi ngại ở đây là những bí mật này đều do chính cơ quan Nhà nước đề xuất. Các cơ quan này “vin” vào nguyên tắc “cẩn tắc vô áy náy đó để “bảo mật” tràn lan. Một động tác rất nhỏ nhưng bắn được nhiều mục đích. Dễ làm, vì quen như thế và nhất là lại chẳng bao giờ phải lo vi phạm vấn đề để lộ bí mật quốc gia.
Ngược lại các quy định về công khai thông tin cho đến nay đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật: Như Luật Đất đai, Luật bảo vệ Môi trường, Luật Phòng chống Tham nhũng, Luật Kiểm toán …. một cách chung chung, với mục đích thi hành những đạo luật kể trên được thuận lợi.
Điểm rất thiếu của các quy định trên là vắng bóng các thủ tục thực hiện các quyền và trách nhiệm cung cấp thông tin, như hình thức yêu cầu tiếp cận, hình thức cung cấp thông tin, thời hạn thực hiện chúng. … Hạn chế này khiến cho việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân càng khó có thể thực thi, mà nếu không làm thì lại là kẽ hở rất lớn cho người khác lợi dụng.
Tình trạng “người cung cấp nói là “mật”, người yêu cầu lại bảo không” vẫn còn, cuộc giằng xé giữa công khai và bí mật vẫn còn chưa ngã ngũ. Đây có là những bất lợi cho việc xây dựng Dự luật Tiếp cận thông tin, thưa ông?
Đúng vậy. Một trong những điểm khó nhất khi xây dựng Dự luật Tiếp cận thông tin này chính là việc xác định ranh giới giữa cái “mật” và “không mật”. Cái cần công khai lại bị giữ bí mật (như quy hoạch đô thị bị giữ bí mật nên nhiều người được lợi và nhiều người bị thiệt không chính đáng), nhưng có những thông tin đang trong giai đoạn phải giữ bí mật thì lại công khai, tạo thành dư luận xấu trong xã hội, gây ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của các cơ quan công quyền (nhất là quá trình tố tụng).
Việc lạm dụng dấu “mật” gây không ít khó khăn trong quá trình khai thác thông tin của các nhà báo. Vậy luật tiếp cận thông tin có ra đời sẽ tác động như thế nào tới truyền thông báo chí?
Báo chí là một kênh để người dân tiếp cận thông tin. Bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của báo chí cũng là bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng. Chúng tôi sẽ có những quy định cụ thể loại thông tin, tài liệu nào cần được công khai, loại thông tin, tài liệu nào là mật. Nghĩa là không phải bất cứ thông tin nào mà anh không muốn cho người khác biết thì anh cũng có thể đóng dấu “mật”. Chúng tôi sẽ quy định dựa vào lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia dân tộc.
Cuộc cách mạng thông tin
Trong buổi lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo luật Tiếp cận thông tin vừa qua, một người dân cho ý kiến rằng: “Dân không đói ăn, đói mặc mà đói thông tin. Có thể xếp chúng tôi vào diện nghèo hoặc cận nghèo với thông tin”. Ông có suy nghĩ gì về câu nói chua chát nhưng tiếc thay lại rất chính xác này?
Tôi đã hơn một lần phát biểu: Quyền lực trong xã hội xuất hiện ở nhiều nơi, nhưng trong thời hiện đại quyền lực quan trọng nhất là ai nắm được thông tin và xử lý thông tin. Thông tin là tiền bạc, thông tin là sức khoẻ, thông tin là rất nhiều thứ. Nếu anh không nắm được thông tin, anh có thể mất tiền bạc, mất danh dự, mất sức khoẻ thậm chí là mất cả tính mạng. Người dân này đã nâng vấn đề cao hơn, quyền tiếp cận thông tin gắn với niềm tin của người dân với Đảng, tôi hết sức thán phục. Vấn đề người dân phản ánh là điều mà các cấp lãnh đạo đáng phải suy nghĩ. Chỗ này tôi còn muốn có thể bổ sung thêm ý nghĩa của luật này ở chỗ quyền thông tin sẽ tạo đà cho sự phát triển của xã hội Việt Nam nói chung, và xóa đi sự nghèo đói nói riêng cho từng người. Đó cũng là mong muốn của Đảng và Nhà nước ta.
Có ý kiến nghi ngại rằng: Nếu chỉ soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin theo kiểu “nêu vấn đề” mà chưa rõ biện pháp chế tài thì có thể nhiều nội dung trong dự luật chỉ để “nói cho oai”?
Hiện nay ở Việt Nam thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của một số cá nhân, tổ chức có quyền, gây ra sự bất bình đẳng, công bằng trong xã hội. khi phát hiện thì lại bị “đánh bài lờ” không đưa ra biện pháp xử lý. Các quy định về quyền được thông tin của người dân đã được thể hiện khá phong phú trong các văn bản pháp lý như Hiến pháp 1992, Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Báo chí... Tuy nhiên, việc thực hiện quyền này từ trước đến nay tỏ ra kém hiệu quả, mà nguyên nhân chính là thiếu chế tài xử lý vi phạm.
Tôi cho rằng luật tiếp cận thông tin sẽ là một cuộc cách mạng về thông tin giải quyết triệt để vấn đề này. Nó không chỉ quy định hành vi nào là đúng, hành vi nào là sai mà sẽ có cả những chế tài xử lý vi phạm tương ứng. Nếu có trách nhiệm không cung cấp, cung cấp sai hoặc cung cấp thông tin không đúng hạn thì anh phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước, thậm chí có thể phải ra tòa. Không đơn giản chỉ dừng lại ở việc từ chức, bãi nhiệm, bãi miễn... mà có thể phải lãnh án tùy mức độ nặng nhẹ.
Về phía người dân, Luật sẽ làm thế nào để nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của họ, thưa ông?
Luật tiếp cận thông tin sẽ quy định cụ thể thủ tục làm việc với chính quyền để người dân không còn lúng túng, không còn bị “lừa”, để các công chức không còn thái độ “đùn đẩy”, “hách dịch”. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là người dân Việt Nam chúng ta quen nếp thụ động nên nhiều khi có thái độ “mặc kệ” trước thông tin, chỉ khi động tới lợi ích của mình, mới “nhảy dựng lên”… thì đã muộn.
Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng người dân sẽ hình thành một thói quen mới: chủ động đón và xử lý thông tin một cách nhanh chóng.
Xin cám ơn ông!
Hà Vân (thực hiện)