80 năm phát triển kinh tế đất nước: Một chặng đường rất đáng tự hào
Việt Vũ•02/09/2025 13:00
(CLO) Nhìn lại chặng đường 80 năm, kinh tế Việt Nam đã trải qua những bước ngoặt lớn, từ khó khăn thiếu thốn thời kỳ chiến tranh và bao cấp, đến công cuộc Đổi mới năm 1986 mở ra giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới.
Trao đổi riêng với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, ông Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính khẳng định: Những thành công trong suốt chặng đường 80 năm qua là tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó, yếu tố cốt lõi là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố xuyên suốt, đóng vai trò trung tâm định hướng cho mọi bước đi và quyết sách chiến lược của đất nước.
Hành trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong 80 năm qua là một chặng đường đầy biến động nhưng cũng rất đáng tự hào. (Ảnh: Lê Đức/DGL)
80 năm phát triển kinh tế đất nước: Một chặng đường đáng tự hào
Thưa ông, nhìn lại chặng đường 80 năm phát triển kinh tế đất nước, ông đánh giá như thế nào về những biến động lớn đã trải qua và những thành tựu nổi bật mà Việt Nam đã đạt được?
- Có thể thấy, hành trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong 80 năm qua là một chặng đường đầy biến động nhưng cũng rất đáng tự hào. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một nền kinh tế năng động, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Trong giai đoạn đầu, đặc biệt là trước Đổi mới năm 1986, nền kinh tế Việt Nam phải trải qua nhiều thử thách. Giai đoạn 1945-1975, do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế Việt Nam ở hai miền Bắc - Nam phát triển theo hai hướng khác nhau.
Miền Bắc xây dựng nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, với trọng tâm là nông nghiệp và công nghiệp nặng để phục vụ chiến tranh. Tuy đạt được một số thành tựu trong việc đảm bảo nhu cầu thiết yếu và xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng mô hình này đã bộc lộ nhiều hạn chế về năng suất và hiệu quả.
Ở miền Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng lại chịu sự phụ thuộc lớn vào viện trợ nước ngoài.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Việt Nam đã xác định xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Tuy nhiên, việc áp dụng cứng nhắc cơ chế này trong bối cảnh hậu chiến đã dẫn đến những khó khăn nghiêm trọng. Nền kinh tế trì trệ, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân gặp nhiều thiếu thốn.
Đáng chú ý là tình trạng lạm phát phi mã, có thời điểm lên đến 874,7% vào năm 1986. Những khó khăn này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về một cuộc cải cách toàn diện, mở đường cho công cuộc Đổi mới sau này.
Bước ngoặt lịch sử là năm 1986, khi Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức phát động công cuộc Đổi mới toàn diện, với tư tưởng cốt lõi là chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đây là một cuộc cách mạng kinh tế, mang lại những chuyển biến lớn và tạo ra những thành tựu phi thường.
Thứ nhất, Đổi mới năm 1986 đã tạo ra sự bùng nổ của tăng trưởng và thoát nghèo. Cơ chế thị trường đã giải phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng mạnh và liên tục.
Trong giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/năm. Thậm chí, ngay cả trong những năm khủng hoảng tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Nhờ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam đã tăng lên một cách ấn tượng.
Năm 1990, GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 120 USD, nhưng đến năm 2024, con số này đã đạt khoảng 4.700 USD. Thành công này cũng gắn liền với công cuộc xóa đói giảm nghèo, giúp hàng chục triệu người thoát nghèo và mở rộng tầng lớp trung lưu.
Cụ thể, tỷ lệ nghèo đã giảm từ hơn 37% năm 1998 xuống chỉ còn 2,3% năm 2024. Đây là một trong những thành tựu phát triển bền vững nổi bật nhất của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Thứ hai, Đổi mới đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng hiện đại. Công cuộc Đổi mới đã giúp Việt Nam chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đổi mới đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng hiện đại. (Ảnh: PTM)
Trước Đổi mới, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP. Tuy nhiên, với chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng này đã giảm dần.
Năm 1990, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP là khoảng 38%, đến năm 2024, con số này chỉ còn khoảng 12%. Ngược lại, tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng đã tăng từ khoảng 22% lên gần 38%, và ngành dịch vụ tăng từ khoảng 38% lên gần 43%.
Sự thay đổi này không chỉ cho thấy sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ mà còn phản ánh sự thay đổi trong cách thức sản xuất, kinh doanh và cơ cấu việc làm của người dân.
Thứ ba, Đổi mới đã mở cửa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Một trong những quyết sách quan trọng nhất của Đổi mới là mở cửa nền kinh tế, phá vỡ thế bao vây, cấm vận.
Việt Nam đã chủ động hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, trở thành thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.
Đặc biệt, năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương và đa phương; đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, các nước lớn.
Việt Nam còn là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế như APEC, ASEM, Liên Hợp Quốc…
Việt Nam đã hoàn thành các trọng trách quốc tế như là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021, Chủ tịch ASEAN vào các nhiệm kỳ 2010 và 2020.
Cùng với đó, hội nhập quốc tế đã mang lại những kết quả kinh tế ấn tượng. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng từ khoảng 5 tỷ USD năm 1990 lên hơn 786 tỷ USD vào năm 2024.
Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới về nhiều mặt hàng như dệt may, giày dép, điện thoại và linh kiện điện tử.
Sự hội nhập này cũng thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khổng lồ, đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và tạo việc làm. Lũy kế vốn FDI đăng ký vào Việt Nam từ năm 1988-2024 đã đạt hơn 630 tỷ USD.
Thứ tư, trước Đổi mới, kinh tế nhà nước và tập thể chiếm vai trò gần như tuyệt đối. Tuy nhiên, chính sách kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh mẽ.
Từ chỗ gần như không tồn tại, khu vực kinh tế tư nhân, đại diện cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước, hiện đã trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp hơn 50% GDP (2023), tạo ra hàng triệu việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Tôi cho rằng, 80 năm qua, hành trình phát triển kinh tế của Việt Nam là một câu chuyện về sự chuyển mình mạnh mẽ, từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường.
Những chuyển biến lớn nhất chính là sự bứt phá về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, sự mở cửa và hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Những thành tựu này không chỉ là những con số mà còn là minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối Đổi mới, là nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục vươn lên mạnh mẽ trong tương lai.
Đâu là những dấu mốc mang tính bước ngoặt trong lịch sử kinh tế Việt Nam, thưa ông?
- Nhìn lại lịch sử kinh tế, có bốn dấu mốc quan trọng đã định hình phương hướng phát triển của đất nước.
Dấu mốc đầu tiên và quan trọng nhất là Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 với chủ trương Đổi mới toàn diện. Công cuộc cải cách này đã “cởi trói” cho nền kinh tế, chấm dứt thời kỳ bao cấp và chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt mở ra một nền kinh tế nhiều loại hình sở hữu, tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa và hội nhập quốc tế.
Dấu mốc thứ hai là việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và gia nhập ASEAN năm 1995. Đây là những sự kiện mang tính chiến lược, giúp Việt Nam phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ quốc tế và thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Kể từ năm 1995, vốn FDI vào Việt Nam đã tăng nhanh chóng, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và tạo việc làm cho nền kinh tế.
Dấu mốc thứ ba là Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Sự kiện này đã đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Khu vực kinh tế tư nhân, đại diện cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước, hiện đã trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. (Ảnh: Hòa Phát)
Dấu mốc thứ tư là sự thay đổi, sắp xếp, tinh gọn bộ máy chính trị và sự ra đời của 04 nghị quyết trụ cột. Đây là dấu mốc chiến lược của thời kỳ mới, khi Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển cao hơn. Việc tinh gọn bộ máy, giảm thiểu bộ phận kém hiệu quả đã tạo ra một môi trường hành chính minh bạch và năng động hơn.
Cùng với đó, 04 nghị quyết này đóng vai trò là kim chỉ nam cho sự phát triển trong tương lai, đặt nền móng cho những đột phá then chốt: Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ là động lực để Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và tiến tới nền kinh tế tri thức.
Nghị quyết số 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới định hình lại cách Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới các liên kết bền vững hơn.
Nghị quyết số 66-NQ/TW về Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật sẽ tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch, công bằng, thúc đẩy niềm tin cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Nghị quyết số 68-NQ/TW về Phát triển kinh tế tư nhân khẳng định vai trò của khu vực này là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tạo ra hành lang chính sách thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ.
Những dấu mốc này không chỉ định hình con đường phát triển kinh tế mà còn tạo nên nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI.
Yếu tố cốt lõi là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhìn từ các bài học thành công trong 80 năm phát triển, ông có thể cho biết đâu là yếu tố cốt lõi giúp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng bền vững và hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045 - cột mốc Việt Nam kỷ niệm 100 năm thành lập đất nước?
- Những thành công trong suốt chặng đường 80 năm qua là tổng hòa của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó, yếu tố cốt lõi là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố xuyên suốt, đóng vai trò trung tâm định hướng cho mọi bước đi và quyết sách chiến lược của đất nước.
Chính sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra sự đoàn kết, thống nhất cao trong toàn bộ hệ thống chính trị, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống từ trung ương đến địa phương, từ khu vực nhà nước đế khu vực tư nhân và người dân.
Ông Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính. (Ảnh: VCL)
“
Chính sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra sự đoàn kết, thống nhất cao trong toàn bộ hệ thống chính trị, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống từ trung ương đến địa phương, từ khu vực nhà nước đế khu vực tư nhân và người dân.
Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2024 đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất mà Việt Nam cần vượt qua để hiện thực hóa mục tiêu này?
- Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với 5 thách thức lớn để thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh còn thấp, nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu và Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam đang bị giảm so với các nước cùng mức thu nhập.
Trong khi đó, GDP bình quân đầu người của Việt Nam (GDP/người) vẫn trì trệ so với các nền kinh tế tiên tiến hơn. Tính đến năm 2024, GDP/người của Việt Nam chỉ bằng 14,2% của Hàn Quốc, 14,5% của Nhật Bản và 5,2% của Singapore - hầu như không thay đổi so với đầu những năm 1990.
Đáng báo động là GDP/người của Việt Nam bằng 76% của Trung Quốc vào năm 1989 nhưng đã giảm xuống chỉ còn 35% vào năm 2024.
Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa lớn mạnh như kỳ vọng. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo và quản trị còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn, đất đai và nhân lực chất lượng cao. Do vậy, kinh tế tư nhân chưa phát huy tối đa vai trò động lực cho tăng trưởng như mục tiêu đề ra.
Thứ hai, nền kinh tế dễ tổn thương do mức độ tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất toàn cầu còn ở mức thấp và phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, đầu tư nước ngoài với giá trị gia tăng thấp, trong khi rủi ro và bất ổn địa kinh tế, địa chính trị toàn cầu đang ngày càng gia tăng, làm thay đổi mạnh cục diện và hình thái toàn cầu hóa, liên kết và hợp tác.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 đạt 89% GDP và tập trung vào một số thị trường chính như Mỹ, Trung Quốc, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, chiếm 79% tổng kim ngạch xuất khẩu.
FDI đóng góp tới 20% GDP, 18% tổng vốn đầu tư và chiếm 71,7% xuất khẩu, trong khi chuyển giao công nghệ và quản trị còn hạn chế.
Thứ ba, Việt Nam là một trong các nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do biến đổi khí hậu (BĐKH).
Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo, theo kịch bản có khả năng xảy ra nhất (RCP4.5), tổn thất kinh tế vĩ mô riêng của ba tác động khí hậu được dự báo sẽ làm giảm tăng trưởng GDP Việt Nam theo giá so sánh bình quân nửa điểm phần trăm mỗi năm trong suốt những năm 2020, giảm xuống còn 0,25 điểm phần trăm vào những năm 2040.
Những tác động đó dự kiến sẽ gia tăng, dẫn đến tổn thất tổng sản lượng lên đến 9,1% vào năm 2035 và 12,5% vào năm 2050, so với kịch bản cơ sở, có thể cản trở mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam.
Thứ tư, xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng. Từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu quá trình già hóa dân số và là một trong số các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.
Dự báo đến năm 2036, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số già, xã hội chuyển từ “già hóa” sang “già” và đến năm 2050, Việt Nam trở thành xã hội siêu già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 25% dân số.
Dân số già là một trong những thách thức lớn của kinh tế Việt Nam trong thời gian . (Ảnh: Phong Sơn)
Trong đó, thách thức đối với Việt Nam là nước ta chỉ có khoảng trên 20 năm để chuyển từ xã hội già hóa dân số sang xã hội dân số già, trong khi các nước có hàng trăm năm hoặc hơn nửa thế kỷ để từng bước thay đổi chính sách, ứng phó với sự già hóa dần.
Thứ năm, vấn đề bất bình đẳng ngày càng gia tăng rõ nét. Hệ số GINI (chỉ số dùng để đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập hoặc tài sản của một quốc gia) của Việt Nam đang tăng nhanh từ 34,8% năm 2014 lên 37,2% năm 2024.
Thời gian tới, tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có thể làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập hơn nữa.
Trước thực trạng như vậy, Việt Nam cần làm gì để thực hiện mục tiêu nêu trên?
Tôi cho rằng, chúng ta cần cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, trong đó, cải cách mang tính cơ cấu với 3 yếu tố nền tảng là Nhà nước kiến tạo, kinh tế thị trường với khu vực tư nhân là động lực quan trọng nhất, và thể chế chính là chất xúc tác dung hợp.
Sự dung hợp này tập chung hệ thống pháp luật và tố tụng; phát triển, hiện đại hóa thể chế ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật, bao gồm: tổ chức - bộ máy, đội ngũ công viên chức…
Thứ hai, đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và tính bền vững trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi kép bền vững và bao trùm.
Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và tính bền vững trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ. (Ảnh: Moit)
Tăng tính tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa đang tái định hình, tái cấu trúc, bảo hộ và phân mảnh thương mại gia tăng. Phát triển các mô hình kinh tế mới, thúc đẩy mạnh mẽ khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi kép, AI, dữ liệu…
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm đảm bảo huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, tạo động lực cho khu vực tư nhân trong nước nâng cao nội lực, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ ba, chúng ta cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đổi mới mạnh mẽ giáo dục - đào tạo, y tế, hệ thống an sinh xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu và thích ứng với thay đổi nhanh chóng của kỷ nguyên số.
Cuối cùng, Việt Nam cần xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ: hạ tầng giao thông, năng lượng, logistics, giáo dục - y tế - văn hóa, hạ tầng số và hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu.
“
Việt Nam cần cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, trong đó, cải cách mang tính cơ cấu với 3 yếu tố nền tảng là Nhà nước kiến tạo, kinh tế thị trường với khu vực tư nhân là động lực quan trọng nhất, và thể chế chính là chất xúc tác dung hợp.
Ông Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.