Bài 3: Một lực lượng sẵn sàng cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn
(NB&CL) Có thể nói, lực lực vũ trang đã trở thành lực lượng giữ vai trò nòng cốt, là chỗ dựa để cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh, thành phố trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi, hạn chế thương vong.
Bài liên quan
Bài 1: Cuộc trở về bí mật và Hội nghị quan trọng nơi Khuổi Nặm
Bài 2: Mặt trận Việt Minh - Đánh thức tinh thần dân tộc
“Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941 chỉ rõ.
“Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”
Từ năm 1939, các Hội nghị Trung ương Ðảng đều đặt ra yêu cầu phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Nếu Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 chủ trương “Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên”, thì Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta”. Hội nghị Trung ương 8 cũng xác định: “Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc lời tuyên thệ trong ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ảnh Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Trên quan điểm đó, Ðảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến tháng 7/1940, tại nhiều nhà máy, trường học, đường phố các tỉnh Nam Kỳ, ngoài tổ chức tự vệ đã hình thành các tổ, tiểu tổ du kích. Ở vùng nông thôn, nhiều xã tổ chức được từ một tiểu đội đến một trung đội du kích. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27/9/1940), đội du kích (lấy tên là Cứu quốc quân) được duy trì và phát triển. Tại những nơi có phong trào Việt Minh và lực lượng tự vệ phát triển mạnh, nhất là ở hai trung tâm cách mạng Cao Bằng và Bắc Sơn – Vũ Nhai đã hình thành và phát triển các đội du kích thoát ly.
Ngày 28/1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Từ cuối năm 1941, nhiều nơi trong cả nước thành lập đội vũ trang cách mạng. Năm 1943, hình thành căn cứ địa liên hoàn nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên… Tại các căn cứ địa, lực lượng chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang.
Thời gian rất gấp và sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc” tháng 10/1944 đã chỉ rõ: “Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22/12/1944). Chỉ thị nêu rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực...”.
Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, vào lúc 17 giờ ngày 22/12/1944, tại núi Dền Sinh dãy Khau Giáng thuộc xã Tam Kim và Hoa Thám, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Trong buổi lễ, trước đại diện của các tỉnh Cao - Bắc - Lạng và đông đảo đồng bào Tày, Nùng, Dao, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và đồng chí Hồ Chí Minh ủy nhiệm, tuyên bố thành lập Đội và vạch rõ nhiệm vụ của Đội với Tổ quốc.
Ở thời điểm đó, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chỉ có 34 thành viên, biên chế thành 3 tiểu đội, trong khi đó trang bị chỉ gồm 2 súng “Thất cửu” (Hanyang 88), 17 súng trường, 14 súng kíp và một số súng tiểu liên. Số lượng đội viên tuy ít, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, nhưng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam là “một đoàn quân gang thép, rắn chắc không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù”.
Chỉ ba ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã liên tiếp tấn công xoá sổ hai đồn địch ở Phay Khắt (25/12/1944), Nà Ngần (26/12/1944) gây tiếng vang lớn, cổ vũ tinh thần cách mạng của quần chúng, gấp rút chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ vùng dậy đạp đổ xiềng xích nô lệ của thực dân, phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, giành độc lập cho Tổ quốc.
Với sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng dần được củng cố, hoàn thiện gồm 3 thứ quân: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – đội quân chủ lực; Các đội vũ trang thoát ly ở các tỉnh, các châu, các huyện và các đội quân địa phương; các đội tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc ở các làng xã, xí nghiệp, đường phố - lực lượng bán vũ trang địa phương.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, khi thời cơ phát động chiến tranh du kích, thực hành khởi nghĩa giành chính quyền bộ phận đã chín muồi, bản Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (12/3/1945) đề ra phải gấp rút tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích, thành lập Việt Nam cứu quốc quân. Cho đến Cách mạng tháng Tám, đã có ba Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân. Đầu năm 1945, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt châu, xã, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Lực lượng vũ trang - nòng cốt trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng cao, tháng 4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Việt Nam tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngoài 13 đại đội chủ lực, nhiều đơn vị Giải phóng quân địa phương đã được thành lập tại một số tỉnh và cả ở một số huyện khác thuộc Khu giải phóng Việt Bắc.
Ngoài Khu Giải phóng Việt Bắc, tại các chiến khu khác và vùng ngoại vi Khu giải phóng, nhiều đội du kích tập trung đã được thành lập và ngày càng lớn mạnh. Tại nhiều địa phương khác như Hải Dương, Hà Đông, Hà Nam, Hòa Bình… các đội tự vệ cứu quốc và các đội du kích tập trung cũng được xây dựng và phát triển. Tại Hà Nội, hầu hết các hội viên Công nhân cứu quốc, các đoàn viên Thanh niên cứu quốc có tinh thần hăng hái dũng cảm đều gia nhập tự vệ chiến đấu. Bên cạnh các lực lượng tự vệ, du kích, tại nhiều tỉnh còn lập ra các đội thanh niên xung phong vũ trang, các đội “Danh dự” trừ gian, diệt phản như Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây, Vinh – Nghệ An…
Đó là lực lượng tự vệ rất đông đảo ở các làng xã, xí nghiệp, đường phố, nhiều đội du kích tập trung ở các chiến khu và các căn cứ vũ trang khác; hàng chục đại đội, trung đội Giải phóng quân là bộ đội chủ lực hoặc là bộ đội địa phương ở các tỉnh, các huyện thuộc Khu Giải phóng Việt Bắc. Lực lượng vũ trang ấy cùng với đội quân chính trị to lớn của quần chúng nhân dân đã kết hợp chặt chẽ với nhau.
Có thể nói, lực lực vũ trang đã trở thành lực lượng giữ vai trò nòng cốt, là chỗ dựa để cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh, thành phố trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi, hạn chế thương vong.