Cách mạng Tháng Tám 1945: Dấu ấn của tư duy chủ động và sáng tạo
(CLO) Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài, với những quyết sách mang tính đột phá, thể hiện sự chủ động và sáng tạo vượt bậc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là bài học quý báu còn nguyên giá trị.
Chia sẻ tại Hội thảo khoa học quốc gia “Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn”, diễn ra mới đây, PGS.TS. Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết, sớm tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sức truyền bá tư tưởng cách mạng theo con đường vô sản cho mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là những người yêu nước Việt Nam.

Cuốn sách Đường Kách Mệnh bao gồm những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho các giới huấn luyện cán bộ Quảng Châu, chứa đựng những nhiệm vụ cơ bản của con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết “cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Có ba thứ cách mạng là tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng và giai cấp cách mạng. Trong đó Người nhấn mạnh loại hình cách mạng dân tộc, nói theo cách khác đầy đủ hơn là cách mạng giải phóng dân tộc.
Người giải thích rõ vì sao mà sinh ra dân tộc cách mệnh: “Một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu, lấy võ lực cai trị dân nước ấy và giành hết các quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do, độc lập, lại làm ra được bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy nhiêu. Đến khi dân nô lệ chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên đoàn kết lại, biết rằng thả chết tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi, đấy là dân tộc Cách mệnh”.
Trên cơ sở tư tưởng ban đầu về dân tộc Cách mệnh, Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tại Hội nghị hợp nhất đầu năm 1930 nêu chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Theo PGS.TS. Trần Đức Cường, cần khẳng định việc triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam nhằm tiến tới thành lập một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam vào đầu năm 1930 là do sáng kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trước tình hình các tổ chức cộng sản ở Việt Nam chưa thống nhất cho cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, thậm chí còn công kích lẫn nhau, Nguyễn Ái Quốc mặc dù chưa nhận được nghị quyết của Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết đó được soạn thảo từ tháng 10/1929 có nhiều lần thảo luận đến 28/11/1929 Quốc tế Cộng sản mới thông qua. Khi nghị quyết đó về đến trong nước thì việc thống nhất các tổ chức đảng đã được thực hiện rồi. Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam từ ngày 6 đến 7/2 năm 1930, Hội nghị đã ra quyết nghị về việc thành lập của Đảng Cộng sản duy nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Sự sáng tạo này của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá rất cao. Tác giả Hồng Thế Công (tức đồng chí Hà Huy Tập, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 7/1936 đến tháng 3/1938) đã viết về sự kiện này trong tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương như sau: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người đã có sáng kiến đề ra và lãnh đạo công cuộc thống nhất”.
Trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc viết: “Sự áp bức và bóc lột mọi nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”.
Ngay trong năm 1930, khi Đảng mới ra đời, các tổ chức Đảng ở nhiều nơi đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức, bóc lột mạnh mẽ, nhất là công nhân, nông dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã tạo nên Xô viết Nghệ Tĩnh với khí thế ngút trời. Dù bị đàn áp dã man, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh được đánh giá là một cuộc đấu tranh quyết liệt của dân cày và công nhân Nghệ An đã mở ra một chuyển biến mới mới, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, bọn bạo ngược của cường hào và quan lại.
Đặt quyền lợi dân tộc lên hàng đầu
Thời kỳ từ năm 1936 đến năm 1939, thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương là thời kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương có bước tiến mới, chủ động, sáng tạo lãnh đạo phong trào dân chủ, tập hợp mọi lực lượng tiến bộ chống phát xít và chống chiến tranh.

Hoạt động của Đảng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nhờ đó, uy tín của Đảng và các tổ chức quần chúng do Đảng thành lập hoặc vận động thành lập như Hội truyền bá quốc ngữ, Hội Cứu tế bình dân, Đoàn thanh niên phản đế, Nông hội... ngày càng được nâng cao. Thắng lợi của cao trào Mặt trận Dân chủ tạo tiền đề Đảng Cộng sản trưởng thành và phát triển hơn về chất lượng và số lượng.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quân phát xít Đức tấn công Ba Lan (1/9/1939) và sau đó là các nước ở Bắc, Tây Âu. Ngày 14/6/1940, quân Đức tiến vào Paris. Ở châu Á, phát xít Nhật cũng mở rộng chiến tranh. Ngày 22/9/1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương. Nhân dân Đông Dương từ đó phải chịu hai tầng áp bức: thực dân Pháp và phát xít Nhật, vô cùng gian khổ, đau thương, đặc biệt là nạn đói năm 1945 đã làm 2 triệu người miền Bắc Việt Nam chết đói.
Sự áp bức, bóc lột ấy đã dẫn đến kết quả tất yếu. Nhân dân các dân tộc Đông Dương đã đến lúc không chịu nổi ách thống trị tàn bạo của các thế lực xâm lược và vùng lên chống lại.
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương sau khi phân tích tình hình chính trị và xã hội Đông Dương lúc ấy đã nhận định: “Những thảm trạng do đế quốc chiến tranh gây nên sẽ làm cho trình tự tiến hóa và cách mạng hóa của quần chúng hết sức mau chóng, là một phần sẽ trỗi dậy, cách mạng sẽ bùng nổ”.
Trong tình hình ấy, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) từ ngày 6 đến 8/11/1939 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì với sự tham gia của đồng chí Lê Duẩn, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu. Sau khi phân tích tình hình trong nước và thế giới, Hội nghị khẳng định: “Dân chủ bị áp bức ở các nơi sẽ thừa cơ nổi dậy đánh đổ giai cấp thống trị ở các nước thuộc địa, hết thảy dân tộc bị áp bức sẽ cùng dậy tranh đấu liều sống liều chết với đế quốc xâm lược để cởi ách nô lệ để cách mạng thế giới rất rạng rỡ”.
Đối chiếu tình hình Đông dương với tình hình các nước, Hội nghị cho rằng: “Chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít hơn nữa lại là một kiểu phát xít quân nhân thuộc địa nên lại càng tham tàn, độc ác bội phần”.
Phân tích những mâu thuẫn giữa các giai cấp và tầng lớp ở Đông Dương chủ yếu gồm có dân tộc Đông Dương với đế quốc Pháp chiếm giữ quyền kinh tế, chính trị dựa vào giai cấp phong kiến và tay sai. Hội nghị đã đi đến nhận định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả các đế quốc ngoại xâm dù là da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc”.
Sự bóc lột tàn bạo của đế quốc Pháp ở Đông Dương để cung cấp cho chiến tranh sẽ làm cho dân Đông Dương ngày càng cách mạng hóa, cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp của các dân tộc Đông Dương nhất định sẽ bùng nổ.
Về tính chất của cuộc cách mạng, nội dung được Hội nghị Trung ương Đảng vận dụng vô cùng sáng tạo, chủ động thể hiện qua việc xác định đường lối của Đảng lúc này là đặt quyền lợi của dân tộc lên hàng đầu. Nên chủ trương trước mắt chỉ tịch thu ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc và phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương với quyền tự quyết.
“Với những tư tưởng như thế, có thể nói ngay từ Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm tháng 11/1939, Đảng đã thực sự thay đổi chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước tiên, từ thực hiện nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền thành cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là một hình thức cao nhất phong trào đấu tranh Mặt trận toàn đế Đông Dương chống đế quốc Pháp và Nhật”, PGS.TS. Trần Đức Cường cho biết.
Đỉnh cao của sự sáng tạo
Tình hình thế giới và Đông Dương từ 5/1941 đến 3/1945 đã có những thay đổi rất quan trọng. Tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương diễn ra tại Khuổi Nậm, Pác Bó, Cao Bằng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, phân tích tình hình, Hội nghị cho rằng lúc này phát xít Nhật không chỉ là kẻ thù của công nông mà còn là kẻ thù của toàn thể các dân tộc ở Đông Dương.

Hội nghị nhận định:“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị quyết định cần phải thay đổi chiến lược và xác định mục tiêu cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, và điều đó đã được nêu lên ngay từ Luận cương của Đảng khi mới thành lập vào mùa xuân năm 1930 là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”.
Chính với tinh thần ấy, trong giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã luôn giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc một cách chủ động, sáng tạo. Trong diễn biến lịch sử cụ thể, Đảng đã tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân thông qua tổ chức Mặt trận Việt Minh, tấn công liên tục vào kẻ thù cùng lúc ấy là thực dân Pháp và phát xít Nhật, tiến hành xây dựng lực lượng chính trị, quân sự ở các vùng nông thôn, đồng bằng và miền núi, phát động khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa toàn dân tháng 8/1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam và cũng là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: độc lập, tự do.
“Kiên trì con đường cách mạng của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Đây là minh chứng tinh thần chủ động, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, PGS.TS. Trần Đức Cường khẳng định.