Cần một Hội nghị văn hóa toàn quốc để kết nối ‘muôn người như một’
(CLO) Sau Đại hội Đảng lần thứ XIV, chúng ta cần có một Hội nghị văn hóa toàn quốc để truyền cảm hứng và kết nối “muôn người như một”…
Trò chuyện với NB&CL, GS.TS Phạm Hồng Tung - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, ông rất vui mừng vì Đảng ta đã nhận ra nguy cơ tụt hậu là nguy cơ nguy hiểm nhất, để từ đó chúng ta chung đúc ý chí chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học công nghệ, đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo. Ông cũng cho rằng, sau Đại hội Đảng lần thứ XIV, cần có một Hội nghị văn hóa toàn quốc để truyền cảm hứng “muôn người như một”, thúc đẩy văn hóa, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Thể hiện rõ thái độ trọng dân
- Thưa ông, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, sự đồng thuận xã hội là vô cùng quan trọng. Theo ông, việc công khai dự thảo văn kiện và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân có ý nghĩa gì trong việc kết nối lòng dân với các chủ trương, chính sách lớn của đất nước?
+ Trong lộ trình chuẩn bị cho Đại hội XIV, việc công bố dự thảo các văn kiện trên các phương tiện thông tin đại chúng thể hiện rằng, Đảng ta muốn chung đúc ý chí của toàn dân tộc thông qua việc lấy ý kiến rộng rãi toàn dân.
Tất nhiên, trong số 106 triệu người dân và 6 triệu kiều bào ta ở nước ngoài cũng như các chuyên gia quốc tế không phải ai cũng có đủ năng lực, trình độ, có đủ thông tin để góp ý kiến với tất cả những vấn đề trong các văn kiện đó. Nhưng qua việc Đảng cầu thị lấy ý kiến toàn dân như vậy đã cho thấy Đảng ta thể hiện thái độ trọng dân - một thái độ khoa học. Bởi lẽ, khi người dân tiếp nhận các Nghị quyết, các văn kiện của Đại hội XIV, họ thấy được trong đó có “in bóng” ý chí, nguyện vọng của quốc dân đồng bào, đó chính là cơ sở để người dân có một niềm tin chính trị vững chắc.
Do đó, tôi đánh giá rất cao việc Trung ương Đảng quyết định đăng toàn văn các dự thảo văn kiện trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến toàn Đảng, toàn dân.
- Trong các văn kiện ở kỳ Đại hội này, Đảng ta nhìn nhận về các vấn đề văn hóa như thế nào? Ông có đánh giá gì về những định hướng của Đảng để xây dựng một nền văn hóa mới, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta?
+ Thực ra Dự thảo Báo cáo chính trị và các văn kiện khác khi nói về văn hóa là đã dựa trên nền tảng chuẩn bị từ các Nghị quyết về văn hóa. Thế nên về mặt câu chữ, ngôn từ, về mặt nguyên tắc là đã khá đầy đủ. Thậm chí, Đảng ta lãnh đạo và Quốc hội đã phê duyệt cả một chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Cho nên câu chữ trong các văn kiện không quan trọng mà việc biến những chủ trương đó thành hành động mới quan trọng. Hành động ở đây phải là hành động theo kiểu mới, hành động theo kiểu của đổi mới sáng tạo thì mới chắc chắn thành công chứ không nên dừng lại ở câu chữ.
Ví dụ như trong Báo cáo chính trị có câu: “chậm xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam”. Theo tôi không phải chỉ nói một câu như thế là xong, sau đó phải có những chương trình hành động, những kế hoạch cụ thể thì mới đi vào cuộc sống được.

- Ông có thể nói rõ hơn về điều này?
+ Giá trị là gì? Hiện nay có hai cách hiểu. Một, giá trị là những điều tốt đẹp đang hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta và hai là những điều tốt đẹp mà chúng ta đang mong đợi. Hai điều đó khác nhau. Ví dụ chúng ta nói “chân thiện mỹ”, khi chúng ta vẽ một bức tranh, chúng ta dịch một cuốn sách, chúng ta đều muốn nó vừa chân, vừa thiện, vừa mỹ - đó là điều chúng ta đang mong đợi. Còn khi chúng ta làm được rồi thì chân đến đâu, thiện đến đâu, mỹ đến đâu phải do cuộc sống thẩm định. Cũng có thể chúng ta mong đợi nhưng những sản phẩm đó chẳng được một tí chân, thiện, mỹ nào cả.
Hay nói cách khác, giá trị chân, thiện, mỹ thì ai cũng đồng ý nhưng mà không phải nói ra thì bỗng nhiên nó thành hiện thực. Cho nên, khi chúng ta xây dựng hệ giá trị quốc gia dân tộc, hệ giá trị con người Việt Nam, hệ giá trị văn hóa Việt Nam, hệ giá trị gia đình Việt Nam thì chúng ta phải xác định rõ chúng ta đi về hướng nào chứ không phải chúng ta xây dựng những mục tiêu xa xôi.
Tôi lấy ví dụ, đã là người Việt Nam ai cũng ủng hộ giá trị yêu nước, bởi vì đó là giá trị thiêng liêng nhất, cao đẹp nhất. Ngày xưa cha anh chúng ta yêu nước là cầm súng lao ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nhưng bây giờ đất nước hòa bình, chúng ta yêu nước thế nào? Phải nhận thức rất rõ, yêu nước có thể là một động tác nhỏ nhất, ví dụ như không xả rác, phân loại rác để bảo vệ môi trường; có thể yêu nước là việc biết dạy con mình biết cách tư duy độc lập chứ không phải chỉ biết vâng lời; yêu nước là việc mỗi ngày chúng ta sống đúng pháp luật, là việc chúng ta sống thành thực và tốt đẹp, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình ngày hôm qua, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước.

Văn hóa, khoa học công nghệ phải trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
+ Các chủ trương, chính sách chỉ được coi là thành công khi tạo ra thay đổi tích cực trong đời sống nhân dân. Vậy, chúng ta cần làm gì để các Nghị quyết của Đại hội XIV sẽ được lan tỏa, thẩm thấu vào trong đời sống xã hội?
- Về văn hóa, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng ta đã tổ chức thành công Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ III. Theo tôi, ngay sau khi Đại hội Đảng lần thứ XIV, tôi nghĩ Đảng ta nên tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ IV.
Tại sao cần một Hội nghị văn hóa toàn quốc? Vì nó sẽ truyền cảm hứng. Vừa rồi, Đại học Quốc gia và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức thành công hội thảo khoa học quốc tế về Việt Nam học lần thứ VII. Tại Hội thảo này, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dành thời gian hơn 1 tiếng đồng hồ để tiếp kiến các nhà Việt Nam học toàn cầu và đã có những chỉ đạo rất quan trọng.
Trong thực tế, đương nhiên những công trình nghiên cứu Việt Nam, nghiên cứu văn hóa là phải phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trong kỷ nguyên chuyển đổi số thì những vấn đề cốt lõi nằm ở đâu để văn hóa cũng như khoa học phải trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp? Hạn chế quan trọng nhất trong dự thảo văn kiện Đại hội XIV chưa chỉ ra một cách quyết liệt, đó là khoa học công nghệ cho đến giờ phút này vẫn cơ bản đứng ngoài quá trình sản xuất. Chúng ta chưa quyết liệt với nhau rằng, những công trình nghiên cứu từ khoa học cơ bản phải được ứng dụng vào thực tiễn, phải tạo nên những hiệu ứng tích cực cho cuộc sống. Khoa học công nghệ giải quyết vấn đề thực tiễn gì, chuyển giao ứng dụng ở đâu và mang lại hiệu quả gì mới là quan trọng chứ chúng ta không chỉ cần những công bố trên sách vở hay bài báo khoa học.
Trở lại việc tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc, tôi cho rằng, cần thiết có một hội nghị để kết nối muôn người như một, thúc đẩy một tâm thế, một thái độ, để toàn xã hội luôn luôn ở trong trạng thái đổi mới sáng tạo. Lúc đó văn hóa, khoa học công nghệ sẽ phải trở thành “đầu vào”, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tại sao tôi lại nói như thế? Đó là vì mỗi di sản văn hóa, dù là di sản vật thể hay phi vật thể, chúng ta cũng sẽ nhìn nhận dưới góc độ của văn hóa di sản, mỗi sinh hoạt văn hóa chúng ta sẽ nhìn nhận như một hoạt động của công nghiệp văn hóa và sáng tạo. Lúc đó chúng ta không chỉ phấn đấu có cuộc sống văn hóa chân, thiện, mỹ mà những giá trị chân, thiện, mỹ đó sẽ mang lại những giá trị vật chất.
Tôi cũng rất tán thành là trong dự thảo Báo cáo chính trị đánh giá về những nguyên nhân, hạn chế của đất nước trong giai đoạn phát triển này Đảng ta đã chỉ ra “nguy cơ bao trùm”.
Chúng ta đã xác định trong sự nghiệp cách mạng giai đoạn hiện nay có 4 nguy cơ mà càng ngày càng trở nên phức tạp hơn, đó là nguy cơ chệch hướng; nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa; nguy cơ tham nhũng lãng phí và nguy cơ tụt hậu. Lần này Dự thảo Báo cáo chính trị coi nguy cơ tụt hậu là nguy cơ bao trùm. Chữ “bao trùm” tức là Đảng ta đã nhận diện được nguy cơ nguy hiểm nhất, nguy cơ mà chúng ta không giải quyết được thì ba nguy cơ còn lại sẽ càng ngày càng trầm trọng thêm, có thể trở thành hiện thực.

Chúng ta nói nguy cơ tụt hậu là nguy cơ nguy hiểm nhất bởi vì trong giai đoạn toàn cầu hóa, bão táp cách mạng công nghệ hiện nay, tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới sẽ bước vào cuộc đua vô cùng, vô tận và ngày càng khốc liệt hơn.
Quốc gia nào đi sau về khoa học công nghệ, về giáo dục đào tạo sẽ bị tụt hậu về trí tuệ. Khi anh bị tụt hậu về trình độ phát triển thì đương nhiên kinh tế sẽ chậm phát triển, quốc gia đó sẽ trở thành những nước nhược tiểu, lệ thuộc. Song hành với việc lệ thuộc về kinh tế, công nghệ là lệ thuộc về văn hóa. Đó là một thực trạng rất cay đắng khi con em của các quốc gia bị lệ thuộc chỉ đi làm thuê cho ngoại bang, vui cái vui của ngoại bang, buồn nỗi buồn của ngoại bang. Quốc gia đó có thể có độc lập, có chủ quyền nhưng vẫn bị lệ thuộc, đó là sự lệ thuộc thực chất nhưng lại vô hình. Khi đã mất chủ quyền trí tuệ, mất chủ quyền văn hóa, quốc gia đó sẽ rơi vào tình trạng mất nước khi không có giặc - đó là kịch bản vô cùng đen tối.
Cho nên, tôi rất thấm thía khi Đảng nhận ra nguy cơ tụt hậu là nguy cơ bao trùm. Để từ đó chúng ta chung đúc ý chí rằng, chỉ có chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học công nghệ, chỉ có đổi mới sáng tạo thì chúng ta mới vững bước tới tương lai với tư cách của những người không những làm chủ đất nước mình mà còn đi tiên phong, với vai trò định hướng, dẫn dắt.
- Xin cảm ơn ông!