Cảng hàng không quốc tế Gia Bình: Tạo động lực phát triển mới và 'cánh tay nối dài' của Nội Bài
(CLO) Việc đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình sẽ giúp phát huy lợi thế về vị trí, về không gian để tạo động lực thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp, logistics, thương mại điện tử, du lịch và dịch vụ của khu vực. Đồng thời, sẽ giữ vai trò bổ trợ chiến lược cho Nội Bài.
Sáng 14/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế và Tài chính về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.

Dự án phù hợp với chiến lược, đáp ứng nhu cầu 30 triệu hành khách/năm
Thay mặt Chính phủ, trình bày Tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, việc đầu tư Cảng hàng không quốc tế Gia Bình là bước đi chiến lược, mang tính đột phá, góp phần tái cấu trúc mạng lưới hàng không Vùng Thủ đô theo mô hình trung tâm kép đã được nhiều đô thị lớn trên thế giới áp dụng thành công như Luân Đôn (Vương quốc Anh), Tokyo (Nhật Bản), Seoul (Hàn Quốc).
"Việc đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình sẽ giúp phát huy lợi thế về vị trí, về không gian để tạo động lực thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp, logistics, thương mại điện tử, du lịch và dịch vụ của khu vực. Đồng thời, sẽ giữ vai trò bổ trợ chiến lược cho Nội Bài. Cảng hàng không quốc tế Gia Bình có ý nghĩa đặc biệt trong đảm bảo an ninh quốc phòng và phục vụ các sự kiện đối ngoại của Nhà nước, đặc biệt là Hội nghị cấp cao APEC 2027”, Bộ trưởng Bộ Xây dựng nhấn mạnh.

Đáng chú ý, về quy mô đầu tư, dự án được đầu tư với quy mô cấp 4F theo tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng Quốc tế. Đáp ứng nhu cầu đến năm 2030 là khoảng 30 triệu hành khách/năm, 1,6 triệu tấn hàng hóa và đến năm 2050 là khoảng 50 triệu hành khách/năm và 2,5 triệu tấn hàng hóa.
Về kết nối giao thông, Cảng hàng không quốc tế Gia Bình được kết nối đồng bộ với hệ thống giao thông cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh, trong đó có khu vực Hà Nội được kết nối trực tiếp thông qua tuyến đường cao tốc, đường sắt đô thị và đường sắt quốc gia.

Về nhu cầu sử dụng đất là khoảng 1.884,9 hecta, trong đó nhu cầu đất để chuyển đổi trồng lúa hai vụ sang đất Cảng hàng không là 922,25 hecta.
Tổng vốn đầu tư là khoảng 196.378 tỷ đồng, gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động hợp pháp. Trong đó giai đoạn một khoảng 141.236 tỷ đồng, giai đoạn hai khoảng 55.142 tỷ đồng. Thời gian hoạt động của dự án là 70 năm, từ 2025 đến 2095.

Về cơ chế chính sách đặc biệt, trong phạm vi giải phóng mặt bằng của dự án có khoảng 25 di tích cần phải di dời. "Chính phủ kiến nghị với Quốc hội cho phép áp dụng chính sách đặc biệt như sau: Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh được phép di dời các di tích lịch sử-văn hóa các cấp trong quá trình triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư và thực hiện đầu tư dự án. Việc di dời thực hiện trên cơ sở phương án do Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh quyết định, đảm bảo bảo tồn tối đa và phát huy giá trị của các di tích. Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc, Chính phủ hướng dẫn thực hiện”, Bộ trưởng Trần Hồng Minh kiến nghị.
Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình và chính sách đặc biệt hỗ trợ đầu tư dự án.

Cần nghiên cứu kỹ cơ chế, chính sách đặc biệt di dời di tích lịch sử, văn hóa phục vụ dự án
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban nhất trí với sự cần thiết đầu tư dự án, dự án đáp ứng các tiêu chí thuộc thẩm quyền của Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, Hồ sơ dự án cơ bản đầy đủ thành phần theo quy định.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cần lượng hóa rõ các mục tiêu của dự án, xác định lộ trình và tính khả thi. “Bổ sung đánh giá về địa chất, thủy văn, thoát nước, tác động đến sông Ngụ và làm rõ phương án đầu tư hệ thống giao thông kết nối đa phương thức đồng bộ với tiến độ hoàn thành của dự án. Đánh giá tính khả thi trong việc hoàn thành dự án để đáp ứng tiến độ phục vụ APEC năm 2027 trong bối cảnh còn nhiều vướng mắc về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, ông Phan Văn Mãi nhấn mạnh.

Về sơ bộ tổng mức đầu tư, Chủ nhiệm Phan Văn Mãi đề nghị làm rõ hơn căn cứ tính suất đầu tư của dự án, so sánh suất đầu tư với các dự án sân bay tương đương trong khu vực và điều chỉnh theo giá địa phương để lựa chọn mức chi phí phù hợp, tối ưu.
“Về cơ chế, chính sách đặc biệt, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và điều kiện áp dụng, Ủy ban Kinh tế và Tài chính cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành cơ chế, chính sách đặc biệt để thực hiện di dời các di tích lịch sử, văn hóa phục vụ dự án. Tuy nhiên, đề nghị quy định rõ về xử lý hệ quả sau khi di dời các di tích, nhất là việc công nhận lại các di tích khi di dời, bảo đảm giữ nguyên yếu tố gốc, giá trị lịch sử, văn hóa”, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính đề xuất.

Uỷ ban Kinh tế và Tài chính cũng đề nghị cần xây dựng phương án bảo tồn chi tiết, đánh giá tác động và cơ chế giám sát việc di dời, xác định rõ vai trò thẩm định và quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Đồng thời, áp dụng các biện pháp khoa học, công nghệ hiện đại để bảo đảm bảo tồn giá trị gốc, tránh biến dạng di tích.
Bên cạnh đó, quy định rõ trách nhiệm, thời hạn, cơ chế báo cáo và hậu kiểm đối với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong quá trình thực hiện các thủ tục đất đai, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, di dời di tích lịch sử, văn hóa. Cùng với đó là việc thiết lập cơ chế giám sát của Quốc hội, các Bộ ngành, cơ quan Trung ương, bảo đảm tính minh bạch trong thực hiện cơ chế, chính sách đặc biệt.