CDT nước ngoài liên tục bị khởi kiện, buộc phải hoàn trả tiền và thanh toán lãi cho nhiều khách hàng mua nhà
(CLO) Trong các phiên tòa xét xử phúc thẩm “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ” giữa khách hàng mua nhà của CĐT G. I, TAND TP HCM đã tuyên vô hiệu nhiều hợp đồng mua bán và buộc CDTphải hoàn trả tiền mua nhà và thanh toán lãi suất theo quy định cho phía nguyên đơn.
Thiếu tin tưởng CDT vì pháp lý "mập mờ"
Căn cứ theo nội dung đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như phiên tòa sơ thẩm, nhiều nguyên đơn cho biết nguyên nhân khởi kiện đến từ việc CDTG. I có dấu hiệu không rõ ràng trong tư vấn và công khai pháp lý của dự án, khiến quyền lợi của khách hàng bị xâm phạm.
Đơn cử trường hợp nguyên đơn T.L.H, khách hàng này đã ký hợp đồng mua bán 8 căn hộ tại các KCC với số tiền hơn 26 tỷ đồng. Đáng chú ý, trong đó có một hợp đồng mua bán căn hộ tại kcc được ký vào ngày 1/7/2019, trước cả thời điểm CDTnày được SXD cấp gpxd cho khu này gần 2 năm.
Theo nội dung đơn khởi kiện và diễn biến tại tòa sơ thẩm, khách hàng này cho biết sau khi phát hiện CDTG. I có vi phạm trong việc kinh doanh bất động sản (BĐS) hình thành trong tương lai.
Ngoài ra, khách hàng này cho rằng, trong văn bản của SXD TP HCM xác nhận nhiều căn hộ thuộc chưa đủ điều kiện mở bán. Tuy nhiên, các căn hộ đều không chịu sự điều chỉnh của các văn bản liên quan đến điều kiện mở bán của dự án. Do đó, bà T.L.H yêu cầu phía G. I phải hoàn trả gốc và thanh toán tiền lãi chậm trả.
Hay với nội dung đơn kiện và lời khai trong phiên sơ thẩm của ông N.H.T, một khách hàng mua căn hộ tại khu D.C nêu rõ, khi ký hợp đồng mua bán đã được nhân viên tư vấn giới thiệu và cam kết sản phẩm đáp ứng đủ về pháp lý, thủ tục đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng mua bán, ông này mới được biết CDTG. I chưa được cấp phép đối với căn hộ đã giao dịch.
Nhận thấy việc CDT có hành vi vi phạm pháp luật khi mở bán căn hộ khi chưa có đủ điều kiện mở bán, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của khách hàng, ngày 15/3/2023, ông N.H.T đã gửi thông báo đề nghị thanh lý hợp đồng đến G. I. Đến ngày 27/3/2023, CDT này phản hồi không đồng ý thanh lý hợp đồng nhưng không giải thích rõ ràng các vấn đề pháp lý của căn hộ được nêu ra trong đơn.
Do đó, ông N.H.T đã khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng mua bán căn hộ đã giao kết với G. I là vô hiệu, yêu cầu CDThoàn trả lại số tiền gốc và bồi thường thiệt hại theo mức lãi suất ngân hàng.
Không chấp nhận phản tố từ phía G. I
Tại phiên tòa phúc thẩm, TAND TP HCM đã giữ nguyên quan điểm của tòa sơ thẩm về việc các bên ký hợp đồng mua bán căn hộ khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép mở bán là vi phạm Điều 6 và Khoản 2 Điều 55 Luật Kinh doanh BĐS, quy định về điều kiện mở bán nhà ở hình thành trong tương lai. Riêng hợp đồng mua bán giữa bà T.L.H ký với G. I ngày 1/7/2019 thuộc kcc A5, trước thời điểm được cấp gpxd đã vi phạm Khoản 1, 2 Điều 55 Luật Kinh doanh BĐS.
Do đó, nhận định của cấp sơ thẩm là phù hợp và tuyên bố các hợp đồng mua bán căn hộ đã ký giữa khách hàng và G. I vô hiệu là có căn cứ. G. I có trách nhiệm hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã nhận cho khách hàng.
Về việc xác định lỗi làm cho hợp đồng mua bán vô hiệu, nguyên đơn cho rằng bị đơn cung cấp thông tin dự án không đầy đủ, thiếu trung thực và tin tưởng vào uy tín của CDTG. I. Đồng thời phía nguyên đơn xác nhận có tìm hiểu các văn bản pháp lý của dự án nhưng không thể biết hết các loại văn bản đầy đủ của dự án khi đưa vào kinh doanh là không có cơ sở, bởi đây là thông tin được đăng tải công khai.
Mặt khác, phía G. I cũng có lỗi khi chỉ công khai thông tin về sản phẩm mà không công khai tính pháp lý về dự án đủ điều kiện mở bán. Do đó, HĐXX nhận định các bên cùng có lỗi ngang nhau trong vấn đề này.
Kết thúc phiên tòa phúc thẩm, HĐXX đã tuyên xử như sau:
Chấp thuận yêu cầu khởi kiện của bà C.P.L, tuyên bố hợp đồng mua bán giữa bà này và G. I là vô hiệu. Buộc công ty này phải thanh toán toàn bộ số tiền gốc và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 15/4/2023 đến ngày đầu xét xử phúc thẩm là 21/8/2024.
Chấp thuận yêu cầu khởi kiện của ông N.H.T, tuyên bố hợp đồng mua bán giữa bà này và G. I là vô hiệu. Buộc công ty này phải thanh toán toàn bộ số tiền gốc và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 27/3/2023 đến ngày đầu xét xử phúc thẩm là 21/8/2024.
Chấp thuận yêu cầu khởi kiện của bà Đ.T.N, tuyên bố hợp đồng mua bán giữa bà này và G. I là vô hiệu. Buộc công ty này phải thanh toán toàn bộ số tiền gốc và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 23/5/2023 đến ngày đầu xét xử phúc thẩm là 21/8/2024.
Chấp thuận yêu cầu khởi kiện của bà T.L.H, tuyên bố hợp đồng mua bán giữa bà này và G. I là vô hiệu. Buộc công ty này phải thanh toán toàn bộ số tiền gốc và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 20/4/2023 đến ngày đầu xét xử phúc thẩm là 21/8/2024.
Các bên có nghĩa vụ thi hành các nội dung trên ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, kể từ ngày các nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án mà phía G. I không chịu thi hành, thì hàng tháng còn phải chịu thêm lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
Báo Nhà báo và Công luận sẽ tiếp tục cập nhật thông tin liên quan đến vụ việc.
Lê Phong