Chính phủ xem xét dành nguồn vốn riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các FTA
(CLO) Chính phủ đang xem xét dành nguồn vốn riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có EVFTA.
Chính phủ vừa có báo cáo về việc thực hiện Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), sau hơn 3 năm có hiệu lực.
Kết quả sau 3 năm EVFTA có hiệu lực
Theo Chính phủ, EVFTA chính thức có hiệu lực từ 1/8/2020. Tính tới hết năm 2022, tức là sau 2 năm có hiệu lực, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đạt 62,24 tỷ USD, tăng 9,2% với năm 2021.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EU đạt 46,8 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu từ các nước EVFTA đạt 15,4 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2021.

Xuất nhập khẩu hưởng lợi lớn từ các FTA thế hệ mới. (Ảnh: HQ)
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu từ EU ghi nhận mức sụt giảm so với năm 2021. Nhiều mặt hàng nhập khẩu quan trọng từ EU như máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, dược phẩm, sản phẩm hóa chất,... giảm mạnh.
Thặng dư thương mại của Việt Nam với các nước EU trong năm 2022 đạt 31,4 tỷ USD, tăng 35,1% so với năm 2021. Tuy nhiên, dù có mức thặng dư thương mại lớn thứ 2, chỉ sau Mỹ nhưng tỷ trọng thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam còn chưa cao, tương ứng là 12,6% và 4,3%.
Bên cạnh xuất nhập khẩu, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ EU sang Việt Nam cũng có xu hướng tăng mạnh sau khi EVFTA có hiệu lực. Riêng trong năm 2022, EU có 146 dự án đầu tư được cấp mới tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký đạt 24 tỷ USD.
Tính tới hết tháng 6/2023, tức là gần 3 năm EVFTA có hiệu lực, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EU đạt 28,55 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm tỷ trọng 9% trong tổng kim ngạch của cả nước. Việt Nam xuất siêu sang thị trường EU 14,26 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2023, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Về xuất khẩu, trong nửa năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 21,4 tỷ USD, giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, các thị trường xuất khẩu chủ lực như Đức, Pháp, Bỉ sụt giảm đáng kể. Tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Ba Lan, Áo đang tăng. Về nhập khẩu, tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường EU đạt 7,1 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Chính phủ xem xét dành nguồn vốn riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các FTA
Mặc dù những số liệu nêu trên đã cho thấy những kết quả tích cực mà Hiệp định EVFTA này mang lại. Tuy nhiên, quá trình thực thi vẫn bộc lộ một số khó khăn và tồn tại.
Thứ nhất, xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU dù tăng trưởng tích cực trong thời gian qua nhưng tỷ trọng của các thị trường này còn tương đối khiêm tốn (tỷ lệ này ở nhiều tỉnh chưa đến 10%). Ngoài ra, tỷ lệ tận dụng ưu đãi chưa đạt được như kỳ vọng, ví dụ tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong trong EVFTA khoảng gần 26%.
Thứ hai, các doanh nghiệp FDI vẫn chiếm tỷ trọng đa số trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn của Việt Nam như giày dép, da giày, điện thoại và linh kiện, máy móc thiết bị. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn thực hiện gia công hoặc xuất khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm. Việc xây dựng và định vị thương hiệu cho các mặt hàng “Made in Viet Nam” tại thị trường khó tính như thị trường EU chưa được quan tâm, v.v…
Thứ ba, số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường EU còn khiêm tốn. Số lượng các doanh nghiệp nhập khẩu nhìn chung thấp hơn số lượng doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhiều doanh nghiệp mới chỉ tham gia được một số công đoạn của chuỗi cung ứng; khả năng đáp ứng, tuân thủ các yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và các yêu cầu kỹ thuật của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhất là trong bối cảnh nhiều thị trường nhập khẩu ngày càng nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng rào phi thuế quan; doanh nghiệp thiếu chủ động trong đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để hưởng ưu đãi.
Thứ tư, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô hoặc theo đơn đặt hàng gia công của các nhà nhập khẩu nước ngoài. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được thương hiệu xuất khẩu sang các thị trường của EU còn hạn chế.
Để giải quyết các nguyên nhân nêu trên, tăng cường hiệu quả tận dụng các FTA thế hệ mới, trong đó có Hiệp định EVFTA, Chính phủ kiến nghị giải quyết các khó khăn đang tồn tại.

Xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU dù tăng trưởng tích cực trong thời gian qua nhưng tỷ trọng của các thị trường này còn tương đối khiêm tốn. (Ảnh: HQ)
Đồng thời, trong thời gian tới, Chính phủ sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản thực thi các cam kết trong EVFTA. Ngoài ra, định kỳ rà soát việc thực thi, nhanh chóng xử lý vướng mắc, bất cập trong việc thực thi các văn bản này.
Chính phủ sẽ tiếp tục triển khai rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm phù hợp với các cam kết trong EVFTA; Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất phê chuẩn các Công ước quốc tế và thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế có liên quan đảm bảo thực thi cam kết trong Hiệp định EVFTA.
Chính phủ cũng sẽ xây dựng hệ sinh thái tận dụng cơ hội từ các FTA, trong đó có EVFTA. Do nguồn lực có hạn nên trước mắt mỗi tỉnh, thành tập trung xác định 1-2 lĩnh vực hoặc ngành hàng chủ lực để xây dựng hệ sinh thái, nếu thành công sẽ lan tỏa sang các lĩnh vực khác.
Để hỗ trợ cho hệ sinh thái này, các cơ quan quản lý trung ương và địa phương cần kết nối chặt chẽ với nhau để xây dựng chính sách, các biện pháp hỗ trợ cụ thể, phù hợp cho lĩnh vực hoặc ngành hàng chủ lực được lựa chọn.
Chính phủ xem xét dành nguồn vốn riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các FTA, trong đó có EVFTA. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan làm việc cụ thể hơn với các ngân hàng thương mại để xây dựng nguồn tín dụng phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực sản xuất để tận dụng cơ hội từ các FTA (có thể là các lãi suất ưu đãi phù hợp với cam kết quốc tế, điều kiện tiếp cận tín dụng thuận lợi hơn…).
Ngoài ra, cần chủ động tìm kiếm, kết nối và hợp tác với các tổ chức tín dụng quốc tế như IFC, WB, ADB hay các nguồn tài chính hợp pháp khác để tạo nguồn vốn giúp các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nhằm kịp thời đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao từ các thị trường xuất khẩu cũng như thị hiếu của người tiêu dùng trên thế giới.