(CLO) 6 giờ 15 phút sáng, con đường dẫn vào điểm trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh) vẫn còn ướt sương đêm. Hai bên là kênh nước đục lẫn phù sa và cỏ dại mọc lúp xúp, mùi bùn ngai ngái theo gió thổi ngang mặt, phả lên hơi lạnh quen thuộc của vùng quê nằm xa khỏi trung tâm huyện.
Cô giáo Ái Mai 32 năm chở chữ qua kênh nước đục
6 giờ 15 phút sáng, con đường dẫn vào điểm trường Tiểu học Tân Hiệp (xã Bình Thành, tỉnh Tây Ninh) vẫn còn ướt sương đêm. Hai bên là kênh nước đục lẫn phù sa và cỏ dại mọc lúp xúp, mùi bùn ngai ngái theo gió thổi ngang mặt, phả lên hơi lạnh quen thuộc của vùng quê nằm xa khỏi trung tâm huyện.
Trên suốt quãng đường ấy, chiếc xe máy đã cũ của cô giáo Bùi Thị Ái Mai rì rì tiến lại. Nữ giáo viên 55 tuổi cúi nhẹ người phía trước để tránh sương tạt, bàn tay nắm chắc tay lái như thói quen của người đã đi trên đoạn đường này suốt 32 năm qua.
Sân trường còn thưa vắng, bóng học trò chưa kịp phủ kín lối đi. Tiếng khóa cửa phòng học bật lên khe khẽ, tan vào buổi sớm se lạnh. Cô Mai bước vào, nhẹ nhàng đưa tay chạm lên từng mặt bàn, từng chiếc ghế, dò xem có cái nào gãy chân, chiếc nào còn lỏng lẻo hay sứt cạnh. Công việc quen đến mức thành bản năng ấy chẳng ai giao, nhưng sáng nào cô cũng lặp lại “lớp ghép mấy đứa nhỏ nghịch lắm, không coi chừng là gãy ghế lúc ngồi”.
Gần hai thập kỷ trôi qua, cái thói quen tưởng chừng vụn vặt ấy đã hóa thành nhịp điệu bền bỉ của một người giáo viên chọn ở lại nơi mà nhiều đồng nghiệp chỉ dạy một buổi rồi xin rời đi.
Phóng sự chia sẻ của cô giáo Bùi Thị Ái Mai do phóng viên Báo Nhà báo và Công luận thực hiện.
16 năm miệt mài với lớp ghép
16 năm, quãng thời gian đủ dài cho một đứa trẻ lớn khôn, nhưng cũng là 16 năm cô giáo Mai phải chiến đấu với cách thức giảng dạy của một mô hình giáo dục đặc thù: lớp ghép nhiều trình độ .
"Đến nay tôi đã có 16 năm gắn bó ở điểm trường có lớp ghép này", cô Mai kể, đôi mắt ngước nhìn xa xăm về phía cánh đồng.
Tôi mới hỏi cô: “Dạy lớp ghép khó nhất ở điểm nào?”
Cô trả lời ngay: “Khó nhất là giữ cho mấy em không bỏ học. Chứ dạy thì… tập cho quen thôi”.
Lớp ghép ở đây không phải là do thiếu lớp, thiếu giáo viên mà là do cái đặc thù giống như học sinh ở đó nó ít quá. Theo quy định, lớp đơn phải đủ từ 15 đến 20 em. Nhưng ở Tân Hiệp, dân cư thưa thớt, có khi học trò từ "5 xã học chung 1 lớp" .
Sự linh hoạt đến kiệt cùng ấy đã giữ chân con chữ cho hàng trăm trẻ em vùng biên tại Bình Thành.
“Có một điểm lân cận giải thể, học sinh buộc phải chuyển về, gây ra tình trạng bỏ học. Có khi năm học đó lớp Một chỉ có 4, 5 em, trường đành phải để các em nghỉ một năm, một năm thì tất nhiên mấy em đó là không có đi học mà sẽ ở lại nhà rồi chờ năm sau", cô Mai kể.
Khi đủ lớp, các em học sinh đã lớn một tuổi, dẫn đến sự chênh lệch tuổi tác, trình độ. Cô Mai gọi đó là "xâu chuỗi" thiếu cơ sở. Không thể mở lớp Một thì năm sau không có lớp Hai, cứ thế cho đến hết cấp. Để không gián đoạn con đường học tập của trẻ, cô phải xoay xở: "Cô ghép là mỗi năm cô được phân công dạy các lớp ghép khác nhau, có khi là lớp ghép 1+2, 2+3, 1+3, 2+4 và hiện tại là lớp ghép 3+5”.
Sự linh hoạt đến kiệt cùng ấy đã giữ chân con chữ cho hàng trăm trẻ em vùng biên tại Bình Thành.
Những ngày kéo xuồng qua kênh nước
Con đường đến với nghề giáo của cô giáo Mai không trải thảm hoa. Năm 2006, khi rời bỏ điểm chính về đây, cô Mai phải đối mặt với một thực tế khắc nghiệt: không đường bộ, chỉ có đường thủy.
“Hồi đó làm gì có đường, chỉ một lối mòn chạy dọc qua 7-8 con cầu. Thầy cô nhìn cũng biết đó đâu phải đường, mà là… cả một con kênh (con sông nhỏ theo cách gọi của miền Tây Nam Bộ). Vậy mà ngày nào muốn đến lớp cũng phải chèo xuồng vượt qua”, cô Ái Mai kể, giọng nhuốm màu hoài niệm, xen lẫn chút rùng mình khi nhớ lại.
Có những đoạn nước cạn, xuồng không thể đi tiếp, cô Mai lại lội bộ hàng cây số. Nhiều hôm tự mình chèo xuồng men theo con kênh ngoằn ngoèo, đến chỗ không có cầu, cô đành đứng chờ thật lâu, mong gặp phụ huynh đi ngang để xin quá giang sang bờ bên kia.
“Nếu may mắn, phụ huynh ở bên kia kênh nhìn thấy thì họ chạy qua chở giúp”, cô Mai kể.
Mỗi ngày, cô đi từ sáng sớm, tối mịt mới trở về. Không ít đồng nghiệp đã bỏ cuộc vì vất vả đường sá và áp lực công việc. Cô tâm sự: “Có nhiều thầy cô giáo ra ngoài rồi không quay lại nữa… có hai, ba thầy chịu không nổi, đành về quê”.
Trong hoàn cảnh đầy khó khăn ấy, cô Mai lại chọn ở lại. Khi nhìn những lớp học lợp tranh, vách lá trước gió sau mưa và những gương mặt trẻ thơ lem luốc, cô thấy bóng dáng tuổi thơ mình ngày nào. Đó là lúc chữ “tâm” trong cô lên tiếng.
Cô hiểu rằng nếu mình rời đi, những đứa trẻ vùng biên này có thể mất đi người dẫn đường, mất đi cơ hội học hành và dễ bị cuốn vào những nguy cơ như nghiện game, bỏ học, thất học. Và vì vậy, cô quyết định bám trường, bám lớp để giữ lấy con chữ cho những đứa trẻ nơi đây.
Sự hy sinh lớn nhất của cô Mai chính là tình mẫu tử. Cô lập gia đình năm 2000. Thời điểm được điều ra điểm trường lẻ, con trai cô vừa chuẩn bị vào lớp Một.
“Lúc đó con sắp vào lớp Một nhưng tôi đành gửi hết cho chồng”, cô nghẹn giọng.
Trong hoàn cảnh đầy khó khăn ấy, cô Mai lại chọn ở lại.
Công việc đòi hỏi cô phải ở trường cả ngày, nhiều hôm không thể về kịp, cô đành gửi con học ở điểm trường chính gần nhà. Chiều không về kịp thì nhờ thầy cô ở điểm trường đó đón giúp, rồi cho con ăn cơm. Bữa nào tranh thủ được thì tôi đút vội cho con vài muỗng.
Nhắc đến con trai, gương mặt cô Mai bừng sáng. Cậu bé ngày nào giờ đã trưởng thành, tốt nghiệp Đại học Tôn Đức Thắng và theo nghề giáo được hai năm. Cô chưa bao giờ đặt áp lực hay kỳ vọng bắt buộc lên con: “Tôi bảo con cứ học song song, rồi tự chọn nghề mình thấy hợp nhất”.
4 giờ soạn bài cho một ngày dạy
Cuộc chiến của cô Mai không chỉ nằm ở những con đường lầy lội, những chuyến quá giang qua kênh rạch. Mỗi tối, nó vẫn tiếp diễn trong chính căn phòng nhỏ nơi cô miệt mài chuẩn bị bài giảng.
Là giáo viên lớp ghép, cô phải cùng lúc đứng lớp hai đến ba trình độ, đảm bảo học sinh đều nắm chắc kiến thức cơ bản về Toán và Tiếng Việt. Áp lực đè nặng khi khối lượng công việc buộc cô “nhân đôi” công sức.
“Tối nào tôi cũng thức tới 12 giờ để hoàn thành kế hoạch bài giảng cho 2 trình độ học sinh của lớp ghép. Nếu người khác chỉ cần 2 giờ thì tôi phải dành 4 giờ. Thức khuya là chuyện thường xuyên”, cô Mai chia sẻ.
Có lúc mệt mỏi, áp lực và cả sự nghịch ngợm của học trò khiến cô Ái Mai kiệt sức.
Lương không cao, sức khỏe hao mòn, nhưng cô chưa từng cho phép mình buông xuôi: Lớp ghép mà chỉ cần một đêm không soạn bài là kiến thức rối lên hết. Dạy kiểu đó thì không thể làm được gì cho tụi nhỏ”.
Có lúc mệt mỏi, áp lực và cả sự nghịch ngợm của học trò khiến cô kiệt sức. Nhưng rồi cô lại tự nhủ: “Điểm trường khó khăn thì mình phải chịu, không ai làm thay mình”.
Thiếu thốn đủ bề, cô Mai chọn cách sáng tạo để bù đắp. Từ những chiếc thùng giấy, cô tự tay làm bộ đồ dùng học tập, dựng mô hình “khu vườn bí mật” phục vụ bài giảng. Chính những vật liệu mộc mạc ấy lại khiến học trò hào hứng hơn, và bộ đồ dùng tự chế của cô bất ngờ đoạt giải cao trong hội thi của trường và được tham gia cấp huyện.
“Đó là niềm tự hào lớn nhất”, cô cười bởi nó chứng minh sự kiên trì và sáng tạo của giáo viên vùng khó.
Khi ngành giáo dục đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo, cô Mai lại đứng trước một “bức tường vô hình”.
“Rất, rất khó… vì điểm trường không có tivi, không có máy chiếu, không có máy tính gì hết”, cô thở dài.
Học sinh cũng vì thế mà gần như tách biệt với công nghệ. Học tin học mà chỉ học lý thuyết thôi. Không có thiết bị để thực hành. Nhiều hôm, cô phải mang laptop và bàn phím riêng tới lớp để các em được chạm tay vào bàn phím, gõ từng chữ cái.
“Bản thân giáo viên còn khó tiếp cận, nói gì đến học sinh”, cô Mai chia sẻ. Khoảng cách số đã khiến những đứa trẻ vùng biên càng thiệt thòi so với bạn bè ở thành thị.
“
Cô là chỗ dựa tinh thần, là “người mẹ thứ hai”, vừa dạy học, vừa đi vận động từng em trở lại lớp
Nước mắt, mồ hôi và bó hoa đồng nội
Học sinh ở điểm trường nơi cô Mai công tác phần lớn là con em những gia đình lao động nghèo. Cha mẹ các em đi làm thuê, vào rừng hái tràm từ 4–5 giờ sáng.
“Bố mẹ không để tâm gì đến chuyện học của con. Mọi thứ giao phó cho giáo viên hết”, cô Mai nói.
Vậy nên, với lũ trẻ vùng biên này, cô không chỉ là người dạy chữ. Cô là chỗ dựa tinh thần, là “người mẹ thứ hai”, vừa dạy học, vừa đi vận động từng em trở lại lớp.
Trong gần ba thập niên đứng lớp, có những trường hợp khiến cô không thể nào quên. Một trong số đó là em Lê Hoàng Liêm, cậu bé người Chăm từng tính bỏ học để vào chùa. Cô Mai đã trực tiếp đến nhà, ngồi với gia đình, kiên nhẫn phân tích rằng dù đi theo con đường tôn giáo, tri thức nhất là tiếng Việt vẫn là hành trang không thể thiếu.
“Phân tích nhiều lắm, rồi gia đình cũng hiểu ra”, cô kể. Sau đó, Liêm được nhà hảo tâm tặng xe đạp và bảo hiểm y tế, và em quay lại lớp, đi học đều đặn.
Trường hợp thứ hai là bé Nguyễn Thị Kim Tiền, đứa trẻ mồ côi cha, bị mẹ bỏ từ lúc vài tháng tuổi, sống cùng bà nội đã ngoài 70. Cô Mai trở thành người “đỡ đầu”, lo lắng mọi thứ cho Tiền.
Cô nhớ như in buổi sáng 20/11 năm ấy. Giờ ra chơi, Tiền rón rén tới bàn, thỏ thẻ: “Cô ơi… em không có tiền mua hoa. Em tặng cô bông em tự cắt nha cô?”
“Lúc đó tôi thương đến nghẹn lại”, cô Mai kể. Chính tình cảm mộc mạc ấy đã khiến cô quyết tâm hơn. Cô vận động mạnh thường quân, xin được 100 triệu đồng để Tiền được phẫu thuật giảm cong lưng. Các khoản được hỗ trợ thêm diện hộ nghèo, phần tiền còn lại đã được UBND xã gửi tiết kiệm để lo cuộc sống cho 2 bà cháu.
Và cô gọi những nỗ lực thầm lặng của mình là “đáng giá vô cùng”, khi chứng kiến thành quả trước mắt: khoảnh khắc một học trò từng yếu nhất lớp viết được nét chữ đầu tiên đối với cô “quý hơn mọi phần thưởng”.
Nhiều học sinh dù đã lên cấp hai, cấp ba vẫn trở về thăm cô dịp 20/11. Các em mang những bó hoa rừng, những món quà giản dị.
Điều khiến cô tự hào nhất là “gieo chữ” nơi vùng sâu. Hai trong số những học trò năm xưa của cô nay đã tốt nghiệp và quay về đứng cùng bục giảng, trở thành đồng nghiệp của cô ngay tại ngôi trường này.
Cô Mai còn hai năm nữa là nghỉ hưu. Điều cô mong mỏi là học trò tiếp tục học tập, trở thành người có ích, góp phần xây dựng quê hương mình.
Với Tân Hiệp, mảnh đất đã giữ chân cô suốt nửa đời người cô viết lời tri ân giản dị nhưng sâu sắc: “Cảm ơn Tân Hiệp, mảnh đất thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của tôi”.
Gửi đến thế hệ giáo viên trẻ chuẩn bị về vùng biên, cô nhắn nhủ: “Hãy nỗ lực hết mình và tin vào chính mình. Các bạn sẽ hái được những điều tốt đẹp nhất”.
Giữa mái hiên lớp học lợp tranh, người phụ nữ dành trọn thanh xuân để “đắp đường, kéo chữ” cho học trò nghèo vẫn lặng lẽ đứng đó như một biểu tượng bền bỉ của sự tận hiến. Ở nơi biên giới heo hút, mỗi ngày lại sáng lên bởi con chữ và tấm lòng của cô Mai. Xin mượn đôi vần thơ để thay lời kết:
Một đời người - một dòng sông... Mấy ai làm kẻ đứng trông bến bờ, "Muốn qua sông phải lụy đò" Đường đời muôn bước cậy nhờ người đưa ...
Tháng năm dầu dãi nắng mưa, Con đò trí thức thầy đưa bao người. Qua sông gửi lại nụ cười Tình yêu xin tặng người thầy kính thương.
Con đò mộc - mái đầu sương Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày, Khúc sông ấy vẫn còn đây Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông...
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.