Đề xuất: Trường hợp khẩn cấp, Thủ tướng có thể áp dụng biện pháp chưa có trong quy định
(CLO) Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp quy định: Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất, để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025.
Chiều 27/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Tình trạng khẩn cấp, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết: Việc triển khai xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, qua đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Luật quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp. Về đối tượng, Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân nước Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Việt Nam.

Luật quy định: “Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.
Luật cũng quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn về thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ và hạt nhân, dịch bệnh, trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, về quốc phòng; các biện pháp khắc phục hậu quả; huy động nguồn lực, cứu trợ, hỗ trợ; chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân tham gia ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.
Đáng chú ý, Dự thảo Luật quy định điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp; trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; biện pháp xử lý người bị tạm giữ; lực lượng thi hành trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng pháp luật về điều kiện bất khả kháng.
“Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động lực lượng thuộc quyền đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, dịch bệnh để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ cứu hộ, khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh hoặc để ổn định, duy trì an ninh và trật tự, an toàn xã hội”, Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ.
Nhằm phân cấp, phân quyền và bảo đảm linh hoạt để ứng phó kịp thời với các tình huống trong tình trạng khẩn cấp, Luật quy định: Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.

Đại diện cơ quan thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết: Ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Dự thảo Luật đã cơ bản bám sát chủ trương, đường lối của Đảng; phù hợp với Hiến pháp, cơ bản bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật này không thay thế các luật chuyên ngành đang điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, việc xác định tình trạng khẩn cấp trong các Luật chuyên ngành chưa đầy đủ, cụ thể, do đó cần nghiên cứu, quy định về xác định tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền, biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp trong Luật này cho đầy đủ, phù hợp, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp.
Đối với các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhận thấy, quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp là rất quan trọng, tạo tính thống nhất để áp dụng khi xảy ra tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, dự thảo Luật quy định 4 nhóm biện pháp áp dụng tương ứng với 4 dạng tình trạng khẩn cấp (Điều 13 tới Điều 16) lại khác với cách phân loại tình trạng khẩn cấp tại Điều 2 (giải thích từ ngữ), do đó đề nghị nghiên cứu để quy định các biện pháp áp dụng cho phù hợp với phân loại về tình trạng khẩn cấp, bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ, khả thi.
Về lực lượng thi hành trong tình trạng khẩn cấp, có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định có tính nguyên tắc về Ban Chỉ đạo, Ban Chỉ huy tình trạng khẩn cấp; ý kiến khác đề nghị nghiên cứu, khi ban bố tình trạng khẩn cấp thì chuyển vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia và Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự thành Ban Chỉ đạo tình trạng khẩn cấp và Ban Chỉ huy tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính liên tục, thuận lợi, thống nhất trong chỉ đạo, chỉ huy khi ban bố tình trạng khẩn cấp. Trường hợp không quy định ban chỉ đạo, chỉ huy riêng thì Ban Chỉ đạo và Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự sẽ kiêm nhiệm chỉ đạo, chỉ huy trong tình trạng khẩn cấp.