Doanh nghiệp lo lắng đơn hàng may mặc quý IV đang rất khan hiếm
(NB&CL) Ông Phí Ngọc Trình, Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm tiết lộ: Từ quý III/2025 số lượng đơn hàng đã bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm mạnh. Đặc biệt, đơn hàng quý IV đang rất khan hiếm.
+ Ông đánh giá thế nào về bức tranh chung của ngành may mặc Việt Nam trong thời gian gần đây?
- Nhìn chung, trong hơn 1 năm trở lại đây, ngành dệt may ghi nhận tăng trưởng tích cực. Trong đó, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam năm 2024 đạt 44 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2023.
Bước sang năm 2025, ngành dệt may tiếp tục tăng trưởng dương. Cụ thể, trong quý I/2025, ngành dệt may Việt Nam đã đạt trên 8,6 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2024. Với đà tăng trưởng như trên, ước tính, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 6 tháng đầu năm 2025 có thể đạt trên 22 tỷ USD.

Tuy nhiên, trong năm 2025, ngành may mặc Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức như tình trạng nợ xấu, tăng trưởng chậm và cạnh tranh từ các nước có nền sản xuất dệt may xuất khẩu là nguồn thu chính của nền kinh tế. Đặc biệt là vấn đề thuế quan của chính phủ Mỹ với các đối tác trong thời gian vừa qua đã tác động tiêu cực lớn đến ngành dệt may của chúng ta. Do đó, từ quý III/2025, số lượng đơn hàng đã bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm mạnh. Đặc biệt, đơn hàng quý IV đang rất khan hiếm.
+ Ông có thể chia sẻ rõ hơn về khó khăn của ngành dệt may hiện nay không?
- Thực tế, cơ hội xuất khẩu của ngành may mặc tại Việt Nam trong đầu năm 2025 rất tiềm năng, dự kiến tăng trưởng 10% so với năm 2024, ước đạt 47 - 48 tỷ USD đóng góp lớn vào nền kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, sau chương trình nghị sự về thuế quan của Chính phủ Mỹ và các thách thức như áp lực cạnh tranh, yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, tình hình chiến sự trên thế giới, và biến động kinh tế toàn cầu thì ngành dệt may đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất, may mặc là ngành sản xuất sử dụng rất nhiều lao động, do đó giá nhân công chiếm tỷ trọng trong giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay thu nhập của người lao động ngày càng tăng, ngược lại khách hàng luôn mong muốn giữ nguyên giá, đôi khi đòi hỏi phải giảm giá xuống thì mới chấp nhận chốt đơn hàng.
Đồng thời, ngành dệt may của Việt Nam phải cạnh tranh với những nước có chi phí lao động và nguyên liệu thấp hơn như Bangladesh, Campuchia và Myanmar, như vậy khó khăn về giá này lại tăng lên gấp nhiều lần. Như vậy, khó khăn là rất lớn.
Thứ hai, giá nguyên liệu đầu vào như vải, sợi, phụ liệu tăng cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của ngành. Ngoài ra, việc chậm phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ dẫn đến việc ngành dệt may Việt Nam bị phụ thuộc vào thị trường nguyên liệu ngoài nước dẫn đến việc chúng ta không thể điều chỉnh hay kiểm soát được giá đầu vào.
Thứ ba, việc thay đổi chính sách thương mại, tăng thuế nhập khẩu như chính phủ Mỹ đang áp lên các đối tác, trong đó có Việt Nam đang gây tác động rất lớn và tiêu cực với các nhà nhập khẩu Mỹ lâu năm.
Thứ tư, ngành may mặc Việt Nam vẫn đang phải dựa vào các sản phẩm có giá trị thấp và công nghệ thấp, chủ yếu làm gia công cho các đối tác trung gian là chính.
Thứ năm, thị trường có thể thay đổi bất ngờ, như việc thay đổi khí hậu, thay đổi sức mua đột ngột cũng khiến cho các đơn đặt hàng giảm sút hoặc chuyển sang các nước khác.
Cuối cùng, ngành may mặc Việt Nam đang đối mặt với khó khăn về nguồn lao động do phải cạnh tranh với các ngành như giày da điện tử. Ngoài ra, chúng ta đặc biệt thiếu nhân sự kỹ thuật trong lĩnh vực làm từ thiết kế sản phẩm đến bán sản phẩm hoàn chỉnh (gọi là ODM) dẫn đến việc thu hút và đào tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng là một thách thức lớn đối với ngành dệt may.
+ Trước thực trạng như vậy, ông có kiến nghị gì để có thể “giải cứu” bền vững ngành dệt may?
- Thực tế, ngành may mặc Việt Nam đang quá phụ thuộc vào các thị trường chính như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Do đó, để giảm thiểu tác động của bất kỳ suy thoái kinh tế tiềm năng hoặc thay đổi chính sách thương mại, thuế quan, ngành công nghiệp dệt may nên khám phá các thị trường mới và tăng mức độ hiện diện của mình trong các nền kinh tế mới như Nga, Brazil, Hàn Quốc, Trung Quốc hay Thổ nhĩ kỳ.
Đồng thời, Việt Nam cần tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Điều này có thể đạt được thông qua nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào công nghệ và hợp tác chiều sâu để bắt kịp và dự đoán được xu hướng của ngành thời trang quốc tế.
Về phía cơ quan quản lý, tôi mong rằng, Chính phủ cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may. Thời gian qua, Chính phủ đã nhận ra nhu cầu tinh giản thủ tục hành chính để giảm bớt sự phức tạp và tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành. Điều này bao gồm việc đơn giản hóa thủ tục cấp phép, giảm giấy tờ và tăng tính hiệu quả của hải quan.
Ngoài ra, Chính phủ nên cung cấp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các chính sách khuyến khích như miễn thuế, cho vay với lãi suất thấp, giãn đóng bảo hiểm xã hội.
+ Xin cảm ơn ông!