García Márquez: Trong thế giới "Trăm năm cô đơn"
García Márquez: Trong thế giới "Trăm năm cô đơn"
(Congluan.vn) - Dù đi miệt mài, đi hết quãng đời mình và bước qua cả những khoảng cách không gian nghìn dặm, nhưng García Márquez dường như chỉ biết tìm hạnh phúc trong sự cô đơn...
Gabriel José García Márquez (6/3/1927 - 17/4/2014)
Đi tìm chính mình
Gabriel José García Márquez sinh tại thị trấn Aracataca, cạnh bờ biển Caribê (thuộc miền Bắc Colombia). Có lẽ vì được sinh ra cạnh một vùng biển chứa đựng nhiều huyền thoại nên García Márquez luôn thấy lòng mình "dậy sóng", nên ông muốn đi và chinh phục.
García Márquez quằn quại cả tuổi trẻ khi không định hình được cá tính, tâm não mình muốn gì. Và ông chỉ bắt đầu sự nghiệp cầm bút khi tuổi đã gần bước sang 30. Một khởi đầu bút mực muộn nhưng nó là sự ấp ủ của cả một đống tro tàn và chỉ chờ phút giây bùng phát. Nhưng tác phẩm đầu tay của ông chỉ là những truyện ngắn không mấy gì ấn tượng. Chỉ khi những tiểu thuyết nhuốm bụi đường và sự cô đơn lần lượt ra đời thì tên tuổi của García Márquez mới trở thành một hiện tượng văn học của Colombia và thế giới.
Nhất là ở tuổi 40, sau hơn 10 năm thai nghén sự nghiệp thì ông mới cho ra đời quyển tiểu thuyết đóng đinh tên tuổi: Trăm năm cô đơn. Tác phẩm được dịch ra 37 ngôn ngữ và nhận giải Nobel Văn học năm 1982.
Gabriel José García Márquez là con cả sinh ra trong một gia đình trung lưu có 11 người con. Cha ông là một nhân viên điện tín đào hoa có nhiều con ngoài giá thú. Vì vậy, thực chất Nhà văn García Márquez không biết mình có bao nhiêu anh chị em chính thức. Và chính điều này đã ám ảnh García Márquez trong suốt "Trăm năm cô đơn".
Năm 1947, khi García Márquez 20 tuổi và theo học Đại học Quốc gia Colombia tại thủ đô Bogota. Ở đây ông bắt đầu tham gia viết báo và viết truyện ngắn nhưng không định hình được gì. Học được những năm học kỳ mà phải bỏ, vì... mê văn chương! García Márquez bỏ học và thật sự bước vào nghề báo và viết tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tay thể loại tiểu thuyết của Márquez có tên La hojarasca (Bão lá) dù có chút tiếng vang nhưng thật chất vẫn chưa thấy "bóng dáng" mình đâu. Ông được kết nạp vào "Nhóm Barranquilla" - một nhóm gồm các nhà báo xuất sắc - và bắt đầu tiếp xúc với các tác giả tên tuổi có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ngòi bút của mình sau này: Franz Kafka, James Joyce, William Faulkner, Virginia Woolf, Ernest Hemingway...
Trong 6 năm (từ 1954 - 1960), García Márquez bắt đầu bật ngọn "lửa lòng" và bôn ba đi nhiều nước như Thụy Sĩ, Ý, Pháp, Anh, Venezuela và một số nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu để viết báo và tiểu thuyết. Khoảng thời gian này, những thiên phóng sự về các quốc gia mà ông đặt chân đến cùng các tiểu thuyết La mala hora (Giờ xấu), El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư), tập truyện ngắn Los funerales de la Mamá Grande (Đám tang bà mẹ vĩ đại)... lần lượt ra đời đã gây tiếng vang vô cùng to lớn. Nhưng đó chỉ là góc nhìn của một giai đoạn cực ngắn, hạn hẹp!
Năm 1960, khi Cách mạng Cuba thành công, García Márquez tới quốc gia này làm phóng viên cho một hãng thông tấn và trở thành bạn của Chủ tịch Fidel Castro. Với vai trò là phóng viên của một hãng thông tấn đi viết báo, García Márquez đã tới New York, Mexico và bắt đầu với điện ảnh bằng việc viết kịch bản phim mà không đá động chuyện viết tiểu thuyết nữa trong suốt 5 năm (1961 - 1965). Theo nhiều người lý giải, đó là hậu quả của "tâm lý thất bại" với các tác phẩm trước đây. Mình vẫn chưa biết mình là ai!
García Márquez cùng Chủ tịch Fidel Castro
Nhưng sau 5 năm "nhàm chán", García Márquez nhận ra mình phải làm một cái gì đó lớn lao hơn. Và đầu năm 1965, ông bắt đầu viết tác phẩm quan trọng nhất của mình: Cien años de soledad (Trăm năm cô đơn). Mất 18 tháng ông giam mình để viết và khi tác phẩm hoàn thành thì gia đình nợ đến 10.000 USD. Kinh tế kiệt quệ, García Márquez đã phải bán tất cả vật dụng giá trị trong nhà để có tiền gửi bản thảo cho nhà xuất bản Nam Mỹ ở Argentina. Năm 1967, Trăm năm cô đơn được xuất bản và ngay lập tức cả giới phê bình và độc giả thế giới biết đến tên ông. Một García Márquez chuyên trị Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là đây.
Trăm năm cô đơn là câu chuyện kể về một dòng họ (José Arcadio Buendía là người đầu tiên trong cây dòng họ này) và ngôi làng Macondo - nơi họ sống - qua một trăm năm, tựa như một phần lịch sử của Colombia. Dòng họ Buendia bao gồm 7 thế hệ. Dòng họ này đã tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân.
Trăm năm cô đơn có khoảng 60 nhân vật. Garcia Marquez đã xây dựng nên những nhân vật quái dị và cả phi thường. Ở từng nhân vật được ông nhấn mạnh những biểu hiện của cá tính với những đặc điểm nổi bật: Pilar Ternera với mùi khen khét phả ra từ nách và tiếng cười khanh khách; Rebecca ăn đất yêu đương mãnh liệt; Remedios - Người đẹp ngây thơ với sắc đẹp làm chết người; Aureliano Segundo kẻ phàm tục với câu nói: "Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm"; Mauricio Babilonia thợ cơ khí của công ty Chuối luôn xuất hiện của đàn bướm vàng bay trên đầu...
Đi mà vẫn "Trăm năm cô đơn"
Từ năm 1974, García Márquez lần lượt sống chu du ở Mexico, Cuba, Colombia và Paris (ở đây ông được chính phủ Pháp tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh) và tham gia các hoạt động chính trị với tư cách một nhà văn nổi tiếng. Một năm sau, ông cho ra đời El otoño del patriarca (Mùa thu của vị trưởng lão), kế tiếp là Crónica de una muerte anunciada (Ký sự về một cái chết được báo trước). Tác phẩm lúc nào cũng nhuốm màu cuộc sống tinh thần chật vật, buồn tủi và cô đơn.
Gabriel Garcia Marquez: A life (Gabriel Garcia Marquez: Một cuộc đời) - Cuốn sách được chấp bút đến 15 năm bởi viện sĩ Anh Gerald Martin.
Năm 1982, Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn học cho García Márquez, và không phải tác phẩm nào khác "Trăm năm cô đơn". 3 năm sau, García Márquez xuất bản cuốn tiểu thuyết lớn tiếp theo của mình: El amor en los tiempos del cólera (Tình yêu thời thổ tả), được lấy cảm hứng chính từ mối tình của cha mẹ ông. Một tác phẩm "ám ảnh" từ gia đình và dòng họ có từ thời trẻ.
Năm 1989, García Márquez viết El general en su laberinto (Tướng quân giữa mê hồn trận), tiểu thuyết lịch sử về Simon Bolivar, một người đấu tranh giải phóng các nước Mỹ Latinh. 3 năm sau, ông viết Doce cuentos peregrinos (Mười hai truyện phiêu dạt), một tập truyện ngắn dựa trên các sự kiện báo chí. Năm 1994, ông cho xuất bản tiểu thuyết Del amor y otros demonios (Tình yêu và những con quỷ khác), lấy bối cảnh là thành phố Cartagena và tình yêu giữa một thầy tu 30 tuổi và con chiên là một đứa trẻ mới 12 tuổi. Năm 1996, García Márquez hoàn thành cuốn Noticia de un secuestro (Tin tức một vụ bắt cóc), một thiên phóng sự được tiểu thuyết hóa về vụ những kẻ buôn lậu ma túy và bắt cóc người.
Năm 2002, García Márquez hoàn thành hồi ký của mình Vivir para contarla (Sống để kể lại). Đến Tháng 10 năm 2004, García Márquez xuất bản cuốn Memoria de mis putas tristes (Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi) là tác phẩm cuối cùng của đời ông. García Márquez mất ở tuổi 87 vào ngày 17/4/2014 vừa qua tại Mêxicô.
Như vậy có thể thấy, sau khi bước sang tuổi 60, sức viết của García Márquez vẫn mãnh liệt. Nhưng đâu đó trên hết, xuyên suốt trong các tác phẩm của ông vẫn là những con người khác lạ, lập dị, mâu thuẫn, tự vấn và cô đơn...
Tháng 10/ 2008, cuốn tiểu sử Gabriel Garcia Marquez: A life (Gabriel Garcia Marquez: Một cuộc đời) đã được phát hành. Cuốn sách được chấp bút đến 15 năm bởi viện sĩ Anh Gerald Martin. Ông đã nghiên cứu và thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn, trong đó có mẹ, vợ, con, bạn bè của Nhà văn Garcia Marquez (có cả Chủ tịch Cuba Fidel Castro và cựu Thủ tướng Tây Ban Nha Felipe Gonzalez).
N.P (Tổng hợp)