Giảm nghèo từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại Quảng Ngãi
(CLO) Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đã cải thiện đời sống, thay đổi diện mạo ở tỉnh Quảng Ngãi, nơi đây đã ghi nhận những bước tiến đáng kể trong công tác giảm nghèo nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng miền. Từ những vùng đất khô cằn, sản xuất kém hiệu quả, người dân đã chuyển sang canh tác các loại cây trồng mới mang lại năng suất và giá trị kinh tế cao, từng bước ổn định cuộc sống, thoát nghèo bền vững.
Từ thực tiễn khó khăn đến bước chuyển mình táo bạo
Tỉnh Quảng Ngãi thuộc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, có địa hình đa dạng nhưng cũng nhiều bất lợi: đất đai manh mún, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Đặc biệt tại các khu vực miền núi như Sơn Hà, Sơn Tây, Ba Tơ nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số, tình trạng sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào cây lúa rẫy, keo, mì... khiến hiệu quả kinh tế thấp, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.

Theo thống kê trước khi chuyển đổi, tỷ lệ hộ nghèo tại Quảng Ngãi từng ở mức hơn 10%, tập trung chủ yếu ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Một trong những nguyên nhân chính là sản xuất nông nghiệp truyền thống không còn phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường.
Để giải quyết bài toán nghèo bền vững, Quảng Ngãi đã xây dựng các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo vùng sinh thái, kết hợp nghiên cứu khoa học với nhu cầu thị trường. Các loại cây trồng mới như mít, bưởi da xanh, cam sành, chuối, dứa, đinh lăng, nghệ, sâm cau... đã được đưa vào sản xuất thay thế cho những loại cây hiệu quả thấp.
Tại khu vực Nghĩa Hành (nay thuộc thị xã Nghĩa Hành), nhiều hộ dân đã chuyển đổi diện tích trồng keo sang mô hình trồng bưởi da xanh, sầu riêng xen canh. Chỉ sau 3–4 năm, vườn cây bắt đầu cho thu hoạch ổn định, mang lại thu nhập từ 150–300 triệu đồng/năm.
Ở vùng ven biển như Đức Phổ hay Mộ Đức, người dân đã thành công với mô hình trồng rau màu, hành tím, đậu phộng luân canh với lúa nước. Không chỉ cải tạo đất, mô hình này còn giúp tăng gấp đôi thu nhập so với trước đây.
Tại các vùng cao như Sơn Hà hay Ba Tơ, hàng trăm hộ đồng bào dân tộc đã được hỗ trợ kỹ thuật và giống cây để chuyển sang trồng cây ăn quả hoặc dược liệu bản địa như sâm cau, nghệ vàng, chè dây... Mô hình vừa bảo tồn giống cây quý, vừa tạo sinh kế ổn định.
Điểm đáng chú ý trong chiến lược chuyển đổi của Quảng Ngãi là gắn sản xuất với tiêu thụ tạo chuỗi giá trị nông sản. Chính quyền địa phương phối hợp với các viện nghiên cứu, trung tâm khuyến nông để tập huấn kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao và xây dựng vùng sản xuất đạt chuẩn VietGAP.
Bên cạnh đó, tỉnh tích cực thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các vùng nguyên liệu, nhà máy chế biến, liên kết bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Nhiều mô hình kinh tế hợp tác, tổ hợp tác nông nghiệp đã được thành lập, góp phần nâng cao năng lực quản lý và đàm phán thị trường cho nông dân.
Chẳng hạn, tại khu vực Trà Bồng, mô hình trồng nghệ hữu cơ của Công ty CP Nông sản Hành Tín được đánh giá cao. Tại Ba Tơ, nhiều hộ trồng sầu riêng Sơn Trà đang liên kết tiêu thụ ổn định qua các doanh nghiệp phân phối lớn ở Đà Nẵng và miền Trung.
Thách thức và kỳ vọng
Dù đã có nhiều kết quả tích cực, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại Quảng Ngãi vẫn đối mặt không ít thách thức: thiếu vốn đầu tư ban đầu, kỹ thuật canh tác chưa đồng đều, liên kết chuỗi còn lỏng lẻo, đầu ra nhiều sản phẩm chưa ổn định.
Trước thực tế đó, tỉnh đang tích cực hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất, đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, phát triển hệ thống logistics phục vụ tiêu thụ nông sản. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đào tạo nghề nông, mở rộng tín dụng chính sách và xúc tiến thương mại nông sản địa phương được xem là giải pháp then chốt để duy trì hiệu quả giảm nghèo.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là chiến lược lâu dài, không chỉ giúp Quảng Ngãi giảm nghèo mà còn từng bước xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khi người dân thay đổi tư duy sản xuất, có thêm tri thức và được kết nối với thị trường, họ sẽ là lực lượng trung tâm trong công cuộc phát triển nông thôn mới tại quê hương mình.

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi, trong 5 năm qua (2021–2025), tỉnh đã huy động tổng nguồn lực hơn 7.000 tỷ đồng để triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Đây là nỗ lực lớn nhằm hỗ trợ sinh kế, cải thiện hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt tại các huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Từ nguồn lực đầu tư này, các địa phương đã triển khai 98 công trình hạ tầng cơ sở; thực hiện 260 dự án đa dạng sinh kế, hỗ trợ sản xuất, cải thiện dinh dưỡng; hỗ trợ nhà ở cho hơn 3.900 hộ nghèo và cận nghèo; kết nối việc làm cho trên 800 lao động và đưa hơn 400 người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Các dự án đã tác động tích cực đến đời sống người dân, khơi dậy ý chí vươn lên thoát nghèo. Sau hơn 4 năm thực hiện chương trình, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm mạnh từ 9,1% xuống còn 2,09% vào cuối năm 2025. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm gần 25,7% (bình quân 6,4%/năm); tại các huyện nghèo giảm gần 37% (bình quân 9,25%/năm).
Tỉnh Quảng Ngãi đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ giảm 80% số hộ nghèo, hộ cận nghèo có khả năng lao động. Dự kiến, nguồn lực cần huy động cho giai đoạn 2026–2030 khoảng 1.400 tỷ đồng.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Võ Phiên nhấn mạnh: “Để Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững phát huy hiệu quả, khắc phục những tồn tại của giai đoạn trước, chương trình cần được xây dựng sát thực tiễn, có tính khả thi. Quá trình thực hiện phải xuyên suốt, không bị gián đoạn giữa chính quyền địa phương hai cấp. Cần có sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, đồng thời nâng cao nhận thức để thực hiện tái cơ cấu cây trồng, vật nuôi”.