Gỡ điểm nghẽn vốn cho kinh tế tư nhân: Không thể mãi dựa vào ngân hàng
(NB&CL) Trong bối cảnh Nghị quyết 68-NQ/TW được ban hành, xác định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, việc tháo gỡ điểm nghẽn về vốn – bài toán tồn tại lâu nay, đang được đặt ra một cách cấp thiết và toàn diện hơn.
Liên quan tới vấn đề này, ông Nguyễn Quang Thuân, Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch HĐQT Fiingroup và FiinRatings nhấn mạnh: Việt Nam cần có sản phẩm tài chính – vốn mới, ngoài ngân hàng.
+ Thưa ông, vốn vẫn luôn là vấn đề lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về thực trạng này?
- Trong năm vừa qua, FiinRatings đã đánh giá khoảng 25.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ và nhận thấy vốn vẫn luôn là điểm nghẽn lớn nhất. Từ các dự án lớn hàng chục tỷ, trăm tỷ đô cho đến vài chục triệu USD, doanh nghiệp tư nhân đang rất khó tiếp cận vốn.

Tín dụng xanh thường cần vốn trung dài hạn vì các dự án xanh mất nhiều thời gian triển khai và thu hồi vốn. Trong khi đó, ngân hàng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn từ người dân. Do quy định an toàn, ngân hàng bị giới hạn tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Vì vậy, dù muốn, ngân hàng cũng khó mở rộng cho vay tín dụng xanh. Vì vậy, một số đề xuất cho rằng cần nới quy định này đối với tín dụng xanh, tức là cho phép ngân hàng dùng nhiều hơn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn nếu đó là dự án xanh. Điều này sẽ giúp khơi thông vốn vào lĩnh vực xanh một cách thực chất và bền vững hơn.
+ Vậy theo ông, chúng ta cần những giải pháp trọng tâm nào để giải bài toán vốn cho doanh nghiệp tư nhân?
- Nghị quyết 68-NQ/TW (Nghị quyết 68) của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp rõ ràng về vấn đề vốn, nhằm hỗ trợ kinh tế tư nhân bứt phá. Ví dụ như đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh, hoàn thiện mô hình các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả Trung ương và địa phương, hoặc hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng, đơn giản hóa, minh bạch hóa,...
Với những giải pháp rõ ràng như trên, tôi xin chia sẻ một số góc nhìn mới và được chia thành một số nhóm chính.
Thứ nhất, Việt Nam cần có sản phẩm tài chính – vốn mới, ngoài ngân hàng. Vì Việt Nam quá lệ thuộc vào ngành ngân hàng và điều này sẽ để lại rất nhiều hệ lụy.
Thứ hai, Việt Nam cần phải phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức. Hiện nay, trên thị trường chứng khoán, bất động sản hay các quỹ đầu tư, nhà đầu tư tổ chức vẫn rất yếu. Đây là điểm mấu chốt để khai thông dòng vốn dài hạn cho khu vực tư nhân. Nếu không có vốn dài hạn, thì doanh nghiệp đi huy động rất khó.
Thứ ba, nếu đã nói đến vốn, vay vốn người khác, thì phải minh bạch. Đây là yêu cầu tất yếu.
Cuối cùng, chúng ta phải phát triển các mô hình mới. Về vấn đề này, tôi có một đề xuất rất cụ thể. Hiện nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm mới có đề cập đến việc cho doanh nghiệp bảo hiểm làm quản trị tín dụng. Thế nhưng, hiện chưa có Nghị định hay Thông tư hướng dẫn.
Trên thực tế, rất nhiều khách hàng của chúng tôi đang muốn thoát khỏi sự phụ thuộc vào ngân hàng, nhưng điều đó khó có thể thực hiện nếu thiếu những sản phẩm tài chính thay thế. Điều đáng nói là để triển khai đề xuất này, chúng ta không cần sửa luật, chỉ cần có nghị định hoặc thông tư hướng dẫn là đủ.
Ngoài ra, để doanh nghiệp thoát khỏi lệ thuộc ngân hàng, cần đẩy mạnh mô hình chấm điểm tín dụng độc lập, thay vì chỉ dựa vào CIC (Trung tâm Thông tin Tín dụng của Ngân hàng Nhà nước) hay bản thân các ngân hàng thương mại.
+ Trong Nghị quyết 68 có đề cập tới việc đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh. Ông đánh giá thế nào về chính sách tín dụng xanh hiện nay?
- Hiện tại, chúng ta có chương trình hỗ trợ giảm lãi suất cho tín dụng xanh, nhưng tôi cho rằng giải pháp này không có tính lan tỏa và không bền vững. Vì cuối cùng thì mức lãi suất vẫn phụ thuộc vào rủi ro thực tế của dự án hoặc doanh nghiệp, tức là nếu doanh nghiệp yếu, dự án rủi ro cao, thì dù được gọi là xanh cũng không thể vay rẻ được.
Vì vậy, giải pháp hiệu quả hơn là tín dụng xanh hay trái phiếu xanh cần được ưu đãi về chỉ số an toàn. Ví dụ, tín dụng xanh thường dài hạn, thì có thể cho hệ số rủi ro thấp hơn hoặc loại khỏi các hạn chế về việc dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Hoặc làm như Trung Quốc, nếu trái phiếu được dán nhãn xanh thì được repo (cầm cố) và xếp hạng tín nhiệm từ mức AA trở lên. Hiện nay ở Việt Nam, chỉ có trái phiếu ngân hàng mới được repo.
Tóm lại, các giải pháp mang tính thị trường sẽ hiệu quả hơn chỉ đạo hệ thống ngân hàng giảm lãi suất, vì xanh không làm một doanh nghiệp khỏe hơn. Không thể nói người này khỏe hơn chỉ vì xinh hơn được.
+ Xin cảm ơn ông!