Góp ý văn kiện Đại hội XIV: Cần chỉ rõ đích đến của giáo dục Việt Nam thay vì những khẩu hiệu chung chung
Văn Hiền•11/11/2025 06:45
(CLO) Tham vọng "ngang tầm thế giới” là quá chung chung, mục tiêu của giáo dục và đào tạo là phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thành tựu giáo dục phổ thông của Việt Nam với những bước tiến về xóa mù, phổ cập và duy trì tỷ lệ học sinh đến trường cao là điều xứng đáng tự hào. Nhưng ở mảng giáo dục đào tạo (dạy nghề và đại học) là nơi trực tiếp cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội vẫn còn nhiều điểm yếu cần được nhìn nhận thẳng thắn.
Theo TS Lê Viết Khuyến, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, đã đến lúc Việt Nam phải xác định rõ đích đến của nền giáo dục, thay vì lặp lại những khẩu hiệu “chung chung” kiểu như “ngang tầm khu vực và thế giới”.
“Giáo dục chỉ thực sự thành công khi tạo ra những con người góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", ông chia sẻ với phóng viên Báo Nhà báo & Công luận trong cuộc trao đổi góp ý cho văn kiện Đại hội XIV của Đảng.
Theo TS Khuyến, có thể chia giáo dục Việt Nam thành hai mảng lớn: giáo dục phổ thông chủ yếu nhằm nâng cao mặt bằng dân trí và giáo dục đào tạo nhằm sản sinh ra nguồn nhân lực chất lượng.
Mảng giáo dục phổ thông với các thành tựu liên tiếp từ xóa mù, phổ cập tiểu học đến trung học cơ sở, tiếp tới là trung học phổ thông – là một thành công lớn. Nhờ đó Việt Nam được quốc tế công nhận về thành tích phổ cập và có mặt bằng dân trí tương đối cao so với nhiều quốc gia đang phát triển.
“
Giáo dục phổ thông là nền móng quan trọng, là phôi thai của năng lượng lao động tương lai.
TS Lê Viết Khuyến
Tuy nhiên, mảng thứ hai giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học là nơi tạo ra lực lượng lao động trực tiếp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại là “mảnh đất yếu” nhất trong hệ thống. Chất lượng nhân lực chưa cao, cơ cấu đào tạo mất cân đối, mối liên kết giữa giáo dục và sản xuất lỏng lẻo, khiến năng lực cạnh tranh quốc gia bị ảnh hưởng.
TS Khuyến phân tích: để phát triển, một quốc gia thường dựa trên ba nguồn lực – tài chính, tài nguyên và nhân lực.
Việt Nam không giàu tài nguyên như các nước Trung Đông, cũng không mạnh về tài chính. Lợi thế lớn nhất của chúng ta chính là con người với hơn 100 triệu dân số trẻ, cần cù, ham học. Nhưng dân số đông không tự nhiên trở thành nguồn nhân lực mạnh. Nó chỉ trở thành sức mạnh khi được chuyển hóa bằng giáo dục và đào tạo.
Theo ông, chính vì thiếu hai nguồn lực kia, nên giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, chứ không chỉ là khẩu hiệu. “Muốn công nghiệp hóa đất nước, phải công nghiệp hóa trước hết trong tư duy về giáo dục,” ông nhấn mạnh.
Khái niệm “xây dựng nền giáo dục hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới” theo TS Khuyến là một tầm nhìn đúng nhưng quá trừu tượng.
“Ngang tầm thế giới” là mục tiêu của mọi quốc gia, nhưng đích đến thực sự của Việt Nam phải gắn với yêu cầu cụ thể của đất nước: tạo ra nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Chỉ khi giáo dục đáp ứng được nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH, khi đó chúng ta mới có thể nói đến tầm vóc quốc tế", ông khẳng định.
Cần xây dựng nền giáo dục dựa trên 5 tiêu chí cốt lõi.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, TS Khuyến cho rằng cần xây dựng nền giáo dục dựa trên 5 tiêu chí cốt lõi, thay vì chạy theo các khẩu hiệu “chất lượng cao” hay “quốc tế hóa” hình thức.
Thứ nhất là công bằng, nền móng của phát triển bền vững
Công bằng trong giáo dục không chỉ là cơ hội học tập bình đẳng, mà còn là phân bổ hợp lý nguồn lực và điều kiện học tập. Vùng sâu, vùng xa, học sinh nghèo phải được đảm bảo cơ hội vươn lên. Nếu công bằng bị phá vỡ, xã hội sẽ mất đi động lực phát triển lâu dài.
Thứ hai là chất lượng phải đo bằng năng lực đóng góp cho đất nước
Chất lượng không thể chỉ được đo bằng điểm thi hay xếp hạng quốc tế. Chất lượng thực sự là khả năng đào tạo ra những con người có thể giải quyết bài toán phát triển của đất nước.
Nói cách khác, nếu nhân lực đào tạo ra không đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, thì dù trường có thứ hạng cao đến mấy, giáo dục đó vẫn chưa thành công.
Thứ ba là hiệu quả, do đó phải tái cấu trúc lại hệ thống giáo dục.
Với nguồn lực còn hạn chế, đầu tư cho giáo dục phải đạt hiệu quả cao nhất. TS Khuyến đề xuất tái cấu trúc hệ thống, sáp nhập các cơ sở nhỏ, tăng liên kết giữa đại học và viện nghiên cứu, để hình thành những trung tâm giáo dục – nghiên cứu mạnh.
“Chúng ta phải dám vượt qua sự chia cắt, dám đối mặt với lợi ích cục bộ. Khi hệ thống còn phân mảnh, không thể có hiệu quả tổng thể", ông phân tích.
Trên 80% lao động Việt Nam là lao động giản đơn.
Thứ tư là thống nhất một hệ thống giáo dục quốc dân thực sự mở và liên thông.
Theo TS Khuyến, một trong những yếu điểm lớn nhất của giáo dục Việt Nam là thiếu tính thống nhất. Mỗi bộ, ngành, địa phương quản lý một kiểu, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp, thiếu phối hợp. Ông dẫn lại tinh thần Nghị quyết 18 của Trung ương: “Một lĩnh vực chỉ giao cho một tổ chức chịu trách nhiệm".
Giáo dục phải là một hệ thống thống nhất từ phổ thông đến đại học, từ công lập đến tư thục, dưới một chiến lược quốc gia.
Thứ năm là quốc tế hóa và quản trị hiện đại.
Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa giáo dục. Tuy nhiên, theo TS Khuyến, quốc tế hóa không phải là treo vài chương trình liên kết hay mua bản quyền nước ngoài. Bản chất của quốc tế hóa là chuyển đổi mô hình quản lý sang quản trị hiện đại, minh bạch, tự chủ và có trách nhiệm giải trình. Phải đào tạo người học có tư duy toàn cầu, nhưng gắn bó với lợi ích dân tộc.
Một trong những điểm ông Khuyến đặc biệt nhấn mạnh là cơ cấu nhân lực quốc gia, vấn đề gốc rễ nhưng ít được chú ý.
Hiện nay, trên 80% lao động Việt Nam là lao động giản đơn, tức là chưa qua đào tạo hoặc có trình độ thấp, dưới chuẩn.
“Muốn công nghiệp hóa, tỷ lệ này phải giảm xuống còn 15–20%. Nếu 80% là lao động đơn giản, chúng ta mãi chỉ là nền kinh tế gia công", ông cảnh báo.
Một nền kinh tế không thể chỉ có nhà khoa học, mà cần cả kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân lành nghề. Chúng ta đang đào tạo quá nhiều cử nhân, thạc sĩ trong khi thiếu nghiêm trọng nhân lực kỹ thuật trung cấp.
Việt Nam cần tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, tự động hóa.
Điều này đòi hỏi tái cân bằng cơ cấu trình độ phát triển mạnh giáo dục nghề nghiệp song song với đại học, thay vì xem đó là lựa chọn “hạng hai”.
Cơ cấu đào tạo phải gắn với chiến lược phát triển ngành nghề của đất nước. Việt Nam cần tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, tự động hóa, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo lực lượng lao động chất lượng cao trong nông nghiệp và dịch vụ, nơi hàng chục triệu người dân đang sinh sống.
TS Khuyến cho rằng: “Phát triển phải từng bước theo hướng ‘ly nông, bất ly hương’ – rời bỏ nghề nông, nhưng không rời bỏ quê hương".
Hệ thống giáo dục hiện nay tập trung quá nhiều ở đô thị lớn, trong khi vùng nông thôn, miền núi, biên giới thiếu cơ sở đào tạo và chính sách thu hút giảng viên. Nếu không giải bài toán cơ cấu vùng miền, chúng ta sẽ có nền giáo dục phát triển lệch và nhân lực không đủ để phát triển đồng đều đất nước.
TS Khuyến cũng chỉ rõ, giáo dục và khoa học – công nghệ (KH&CN) phải được xem là hai mặt của một thể thống nhất.
Từ năm 1993, Trung ương đã xác định cả hai là “quốc sách hàng đầu”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đầu tư cho KH&CN của Việt Nam còn rất thấp, dẫn đến hệ lụy: “Giáo dục dù có đào tạo được tiến sĩ giỏi, kỹ sư tốt, nhưng không có nền tảng công nghệ để họ làm việc, thì cũng chỉ dẫn đến thất nghiệp".
Ông dẫn ví dụ nông nghiệp Israel – nơi công nghệ cao giúp năng suất vượt trội dù diện tích đất nhỏ, trong khi đồng bằng sông Cửu Long vẫn chủ yếu dựa vào lao động giản đơn, thủ công. Công nghệ thấp thì chỉ cần nhân lực trình độ thấp. Vì thế, nếu KH&CN không phát triển, giáo dục dù tốt đến đâu cũng không thể chuyển hóa thành năng suất.
Nếu KH&CN không phát triển, giáo dục dù tốt đến đâu cũng không thể chuyển hóa thành năng suất.
Theo TS Khuyến, cải cách giáo dục chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ là tái thiết toàn bộ chiến lược phát triển nhân lực quốc gia, trong đó giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ và thị trường lao động phải vận hành đồng bộ.
“Giáo dục phải phục vụ phát triển đất nước. Nếu không giải quyết được những ‘nút thắt’ về cơ cấu nhân lực, quản trị, và mối quan hệ với KH&CN, thì giáo dục sẽ không thể là ‘quốc sách hàng đầu’ như chúng ta vẫn nói", ông kết luận.
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.