Hà Nam: “Bất thường” bản án xét xử tranh chấp Hợp đồng kinh tế?

13/05/2017 11:17

Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng góp vốn tại Dự án Khu nhà ở phục vụ khu công nghiệp Đồng Văn II giữa nguyên đơn là Công ty CP Phát triển Hà Nam và bị đơn là Công ty CP đầu tư phát triển TST. Tuy nhiên, ý kiến của người làm chứng, quan điểm của Viện kiểm sát trong buổi tranh tụng không được HĐXX ghi nhận và đưa vào bản án.

(CLO) Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng góp vốn tại Dự án Khu nhà ở phục vụ khu công nghiệp Đồng Văn II giữa nguyên đơn là Công ty CP Phát triển Hà Nam và bị đơn là Công ty CP đầu tư phát triển TST. Tuy nhiên, ý kiến của người làm chứng, quan điểm của Viện kiểm sát trong buổi tranh tụng không được HĐXX ghi nhận và đưa vào bản án.

Diễn biến vụ việc

Ngày 21/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng góp vốn tại Dự án Khu nhà ở phục vụ khu công nghiệp Đồng Văn II giữa nguyên đơn là Công ty CP Phát triển Hà Nam và bị đơn là Công ty CP đầu tư phát triển TST.

[caption id="attachment_160415" align="aligncenter" width="600"] Toàn cảnh phiên tòa xét xử[/caption]

Theo hồ sơ vụ việc, năm 2004, Công ty cổ phần phát triển Hà Nam (gọi tắt là Công ty HNC) được UBND tỉnh Hà Nam cấp phép là chủ đầu tư Dự án hạ tầng khu nhà ở phục vụ Khu công nghiệp Đồng Văn II, huyện Duy Tiên. Ngày 22/11/2004, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam ra Quyết định số 1571 về việc thu hồi 3.295.675 m2 đất tại thị trấn Đồng Văn và giao 2.366.912 m2 đất cho Công ty HNC. Khi đó, Công ty TNHH Khải Hương (nay là Công ty CP đầu tư và phát triển TST) là cổ đông sáng lập sở hữu 30% vốn điều lệ của Công ty HNC, với số vốn góp là 10,802 tỷ đồng.

Vì lý do khách quan, năm 2006, Công ty TNHH Khải Hương xin rút toàn bộ vốn góp. Ngày 1/12/2006, Công ty HNC và Công ty Khải Hương đã ký kết Hợp đồng số 24/HĐKT. Theo đó Công ty HNC đồng ý cho Công ty Khải Hương góp vốn và được sử dụng lâu dài 99 lô đất tại khu nhà ở phục vụ KCN Đồng Văn II theo quy hoạch điều chỉnh đã được UBND tỉnh Hà Nam phê duyệt. Cty Khải Hương đã góp đủ số tiền hơn 5 tỷ đồng ngay sau khi hợp đồng được ký kết nhưng đến nay chưa được hưởng bất cứ quyền lợi gì vì dự án chưa xây dựng xong cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, ngày 15/1/2016, Công ty HNC yêu cầu TAND huyện Duy Tiên tuyên bố hợp đồng số 24/HĐKT ngày 1/12/2006 được ký giữa Công ty HNC với Công ty Khải Hương (nay là Công ty CP đầu tư phát triển TST)vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Ngày 30/9/2016, TAND huyện Duy Tiên xét xử, tuyên bố Hợp đồng vô hiệu.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21/4/2017, TAND tỉnh Hà Nam tiếp tục tuyên bố Hợp đồng số 24/HĐKT vô hiệu.

Bản án bất thường?

Theo nhận định của luật sư Cao Bá Trung – Đoàn Luật sư TP Hà Nội – người bào chữa cho bị đơn (Công ty CP đầu tư phát triển TST): xét về bản chất, Hợp đồng góp vốn đầu tư số 24/HĐKT là giao dịch có đủ điều kiện và đúng mục đích pháp luật cho phép, không trái với quy định của pháp luật về đầu tư bất động sản thời điểm năm 2006 cũng như các quy định pháp luật điều chỉnh sau này.

[caption id="attachment_160414" align="aligncenter" width="600"] Hạ tầng dự án chưa được đầu tư đồng bộ, vẫn bỏ hoang[/caption]

Thứ nhất, căn cứ Giấy chứng nhận đầu tư số 1816/GCNUĐ ngày 6/12/2005 của UBND tỉnh Hà Nam cấp cho Công ty HNC thì công ty này được thực hiện dự án đầu tư: xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Đồng Văn II và Khu nhà ở phục vụ Khu công nghiệp Đồng Văn II. Điều đó có nghĩa UBND tỉnh Hà Nam cho phép Công ty HNC được đầu tư hạ tầng của dự án theo quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt rồi đưa vào kinh doanh, khai thác theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật hoặc cho thuê quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật theo quy định của pháp luật và điều kiện dự án. Điều này phù hợp với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 Luật đất đai năm 2003.

Thứ hai, Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nêu trên cho phép “dự án được huy động vốn ứng trước của các tổ chức tín dụng, cá nhân có nhu cầu về nhà ở”.

Thứ ba, Hợp đồng số 24/HĐKT quy định rất rõ: Công ty HNC phải đầu tư xong hạ tầng cơ sở thì mới đủ điều kiện để chuyển quyền sử dụng 99 lô đất cho Công ty TST. Trên thực tế, từ khi Công ty TST góp đủ 100% số tiền đến nay là 10 năm nhưng chưa nhận được bất cứ quyền lợi gì. Hiện 99 lô đất nêu trong hợp đồng số 24/HĐKT vẫn do Công ty HNC quản lý và theo quy hoạch điều chỉnh năm 2016 thì vị trí các lô đất trong hợp đồng đã có sự thay đổi nhưng chủ dự án không hề thông báo cho chủ đầu tư.

Thứ tư, vào thời điểm hai bên ký kết Hợp đồng góp vốn số 24/HĐKT ngày 1/12/2006 thì dự án đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và UBND tỉnh cũng đã phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu nhà ở phục vụ Khu công nghiệp Đồng Văn II. Công ty HNC đã thực hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án. Công ty HNC được phép huy động vốn để xây dựng hạ tầng và được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau khi hạ tầng hoàn thành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 Luật đất đai năm 2003, cho nên bản chất của giao dịch Hợp đồng góp vốn đầu tư số 24 là bên A đầu tư tiền cho bên B xây dựng hạ tầng và bên A được hưởng quyền lợi, đó là quyền sử dụng đất khi hạ tầng xong. Ở đây không có dấu hiệu giả tạo, không có giao dịch nào che giấu bởi giao dịch nào mà chỉ tồn tại duy nhất là giao dịch góp vốn để xây dựng hạ tầng và khi đủ điều kiện thì hai bên mới tiếp tục ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng.

Theo LS Trung, "Công ty HNC nhiều lần điều chỉnh cục bộ quy hoạch dự án; tất cả các lần thay đổi quy hoạch Công ty TST không được biết, chỉ đến khi tham gia tố tụng trong vụ án này mới biết việc điều chỉnh đã thay đổi một phần vị trí, ranh giới, loại đất mà hai công ty đã cam kết “tượng trưng” trong Hợp đồng số 24/HĐKT. Vì vậy phải khẳng định đây là hợp đồng góp vốn đầu tư và được hưởng quyền sử dụng đất trong tương lai, không phải là hợp đồng chuyển nhượng đất nền như bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã nhận định”.

Như vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 110 Luật đất đai năm 2003; khoản 5 Điều 38 Luật nhà ở năm 2005; Điều 15 khoản 6 Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 và Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư số 1816/GCNƯĐ ngày 6/12/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam cấp cho Công ty HNC thì phải khẳng định Hợp đồng số 24/HĐKT không vi phạm điều cấm của pháp luật, mục đích ký kết hợp đồng là hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21/4/2017, đại diện VKSND tỉnh Hà Nam là cơ quan kiểm sát việc giải quyết vụ án của Tòa án cũng đã phát biểu quan điểm, đưa ra các dẫn chứng xác định Hợp đồng số 24/HĐKT không vi phạm điều cấm của pháp luật, có hiệu lực, đề nghị Tòa án chấp nhận kháng cáo của bị đơn, buộc các bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, nhưng HĐXX – TAND tỉnh Hà Nam vẫn bỏ qua ý kiến của đại diện VKSND tỉnh Hà Nam.

Ở đây cũng cần phải nêu lên để thấy sự áp dụng pháp luật của TAND tỉnh Hà Nam trong việc giải quyết tranh chấp loại việc này là rất bất nhất, đó là: Ngày 8/3/2016, TAND tỉnh Hà Nam đã xét xử phúc thẩm vụ án “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn vô hiệu” giữa nguyên đơn Công ty HNC và bị đơn - ông Phạm Văn Giang. Đối tượng khởi kiện cũng là Hợp đồng góp vốn đầu tư để hưởng quyền sử dụng 69 lô đất tại dự án Khu nhà ở phục vụ Khu công nghiệp Đồng Văn II. Trong vụ án này, Tòa án tỉnh đã nhận định Hợp đồng có hiệu lực, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Cùng một chủ dự án, bản chất hợp đồng là giống nhau, cùng một Tòa án xét xử phúc thẩm nhưng cách tuyên mỗi vụ án lại khác nhau.

Vậy, nguyên do là gì?

Dư luận cho rằng bản án "bất thường" này cần phải được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Nhóm PV

    Nổi bật
        Mới nhất
        Hà Nam: “Bất thường” bản án xét xử tranh chấp Hợp đồng kinh tế?
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO