Kinh tế số: Cơ hội vàng của Việt Nam nhưng không thể chờ đợi
(CLO) Trong cuộc đua số, quốc gia nào càng đi chậm càng tụt hậu và khoảng cách tụt hậu ấy sẽ ngày càng khó san lấp. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam không hành động quyết liệt và kịp thời để tháo gỡ những rào cản về thể chế, chúng ta sẽ đánh mất cơ hội vươn lên, trở thành người đi sau ngay trên sân nhà mình.
Kinh tế số tại Việt Nam: Cơ hội không thể chờ đợi
Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào kỷ nguyên số. Việt Nam, với dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng internet cao và tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ, đang đứng trước một cơ hội hiếm có để bứt phá. Nền kinh tế số có thể trở thành động lực tăng trưởng chủ lực, mở ra không gian phát triển mới cho đất nước, giúp chúng ta vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tuy nhiên, cơ hội ấy không chờ đợi. Trong cuộc đua số, quốc gia nào càng đi chậm càng tụt hậu và khoảng cách tụt hậu ấy sẽ ngày càng khó san lấp. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam không hành động quyết liệt và kịp thời để tháo gỡ những rào cản về thể chế, chúng ta sẽ đánh mất cơ hội vươn lên, trở thành người đi sau ngay trên sân nhà mình.

TS Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội cho rằng, Việt Nam đã xác định rõ vai trò trung tâm của kinh tế số trong chiến lược phát triển đất nước. Tuy nhiên, trên hành trình chuyển đổi này, nền kinh tế số vẫn đang bị kìm hãm bởi hàng loạt nút thắt thể chế chưa được tháo gỡ đúng mức.
“Những điểm nghẽn này không chỉ làm chậm lại quá trình đổi mới sáng tạo, mà còn khiến doanh nghiệp và nhà đầu tư nản lòng, làm “nguội lạnh” khát vọng bứt phá của một quốc gia trẻ trung và đầy tiềm năng”, ông Dũng nói.
Phân tích rõ hơn về vấn đề này, TS Nguyễn Sĩ Dũng cho biết: Hiện có 5 nút thắt về thể chế đang cản trở kinh tế số ở Việt Nam.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật đi sau thực tiễn và thiếu tính dẫn dắt. Nhiều hiện tượng kinh tế số đã diễn ra sôi động trong xã hội – như tài sản số, dữ liệu cá nhân, giao dịch xuyên biên giới, nền tảng số, trí tuệ nhân tạo – nhưng vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng.
Doanh nghiệp hoạt động trong tình trạng “vừa làm vừa dò luật”, còn cơ quan quản lý thì lúng túng, thiếu căn cứ để hướng dẫn hoặc xử lý. Việc thiếu luật không chỉ làm tăng rủi ro pháp lý, mà còn khiến các mô hình đổi mới bị bóp nghẹt ngay từ trong trứng nước.
Thứ hai, tư duy quản lý vẫn còn nặng tính hành chính, ngành dọc và bảo thủ. Trong khi nền kinh tế số hoạt động theo logic mạng lưới, tích hợp nhiều lĩnh vực (như thương mại, tài chính, logistics, viễn thông, truyền thông…), thì hệ thống quản lý vẫn bị chia cắt theo từng bộ ngành, từng cấp, từng quy trình khép kín.
Tình trạng “mỗi nơi một ứng dụng, mỗi ngành một hệ thống”, không kết nối, không chia sẻ dữ liệu – đang tạo ra một môi trường quản lý cát cứ, kém hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực.
Thứ ba, thiếu cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) và bảo vệ đổi mới sáng tạo. Hiện nay, cơ chế này mới chỉ được đề xuất ở một số lĩnh vực và triển khai rất hạn chế. Do đó, các startup công nghệ khó có không gian thử nghiệm an toàn, còn nhà đầu tư e ngại vì rủi ro chính sách chưa được lượng hóa rõ ràng.
Thứ tư, chính bộ máy nhà nước chưa được số hóa đồng bộ và hiệu quả. Chính phủ điện tử, chính quyền số là nền tảng cho một nền kinh tế số – nhưng hiện nay nhiều địa phương vẫn “số hóa hình thức”, chỉ chuyển giấy tờ từ bản giấy sang PDF mà không cải cách quy trình. Hệ thống dữ liệu quốc gia còn phân tán, thiếu chuẩn hóa và chưa chia sẻ được giữa các bộ, ngành. Khi nhà nước chưa số hóa thực chất, thì khó có thể dẫn dắt xã hội chuyển đổi số một cách hiệu quả.
Thứ năm, thể chế về quyền tài sản số và dữ liệu vẫn chưa rõ ràng. Điều này không chỉ gây lo ngại về quyền riêng tư, mà còn làm “đóng băng” thị trường dữ liệu – nơi lẽ ra phải là động lực tăng trưởng lớn nhất của kinh tế số.
“Tất cả những điểm nghẽn này đang tạo thành một ma trận ràng buộc sự phát triển của nền kinh tế số Việt Nam. Nếu không nhanh chóng tháo gỡ, chúng ta không chỉ chậm chân – mà có nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong cuộc đua toàn cầu đầy khốc liệt”, ông Dũng nhấn mạnh.
Việt Nam cần thành lập cơ quan điều phối cấp quốc gia về kinh tế số
Để khơi thông dòng chảy của kinh tế số, Việt Nam không thể chỉ điều chỉnh nhỏ lẻ hay chạy theo từng hiện tượng mà cần một tư duy cải cách thể chế toàn diện, đồng bộ và đi trước thực tiễn, với những giải pháp mang tính đột phá, dám chấp nhận cái mới và chủ động kiến tạo cuộc chơi.
Do đó, ông Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, Việt Nam cần ban hành khung pháp lý tổng thể cho kinh tế số. Khung pháp lý này không chỉ nhằm kiểm soát mà còn mở đường, khuyến khích và bảo vệ đổi mới sáng tạo, với tư duy “chấp nhận rủi ro có kiểm soát” thay vì “phòng ngừa rủi ro tuyệt đối”.

Đồng thời, công nhận và bảo vệ quyền tài sản số, quyền dữ liệu. Cần nhanh chóng hoàn thiện pháp luật về sở hữu dữ liệu, quyền riêng tư, quyền giao dịch và chuyển nhượng tài sản số, xác lập cơ chế định giá dữ liệu như một loại tài sản đặc biệt.
“Chỉ khi dữ liệu được thừa nhận là tài sản hợp pháp, thị trường dữ liệu mới vận hành lành mạnh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao giá trị của doanh nghiệp số Việt Nam”, ông Dũng nói.
Bên cạnh đó, Việt Nam có thể ap dụng cơ chế sandbox rộng rãi và linh hoạt. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cần được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hơn – từ fintech, AI, edtech đến regtech, healthtech…
Cần phân cấp rõ ràng cho các cơ quan chuyên môn cấp phép sandbox theo thẩm quyền, đồng thời thiết kế cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả, học từ thực tiễn để bổ sung pháp luật.
Cũng theo ông Dũng, một trong những giải pháp tiếp theo đó là phải số hóa mạnh mẽ bộ máy công quyền. Chính phủ cần chuyển từ chính phủ điện tử sang chính phủ số một cách thực chất: kết nối liên thông toàn bộ dữ liệu, tiêu chuẩn hóa hệ thống, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan để ra quyết định dựa trên phân tích dữ liệu lớn. Đồng thời, cần rà soát, đơn giản hóa và tự động hóa các thủ tục hành chính để vừa minh bạch hóa, vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Thành lập cơ quan điều phối cấp quốc gia về kinh tế số. Đề xuất hình thành một Ủy ban quốc gia về kinh tế số và chuyển đổi số, trực thuộc Chính phủ, có quyền điều phối liên ngành, rà soát chính sách, giám sát triển khai và kiến tạo thể chế mới. Cơ quan này phải được vận hành với tư duy “quản trị theo thời gian thực”, tinh gọn, số hóa và minh bạch – chính là hình mẫu của quản trị trong kỷ nguyên số.
Ngoài ra, đầu tư cho năng lực thể chế – không chỉ là viết luật, mà là tổ chức thực thi. Thể chế không chỉ nằm trên giấy, mà phải được thực thi hiệu quả. Do đó, cần đầu tư vào năng lực cán bộ, đào tạo đội ngũ công chức hiểu rõ kinh tế số, thành lập các trung tâm nghiên cứu chính sách công nghệ, và thúc đẩy hợp tác công – tư trong xây dựng và vận hành thể chế.
“Những giải pháp trên đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, tư duy đổi mới mạnh mẽ và sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng xã hội. Nếu làm được, Việt Nam hoàn toàn có thể vượt lên thành quốc gia kiến tạo trong nền kinh tế số, thay vì chỉ là người theo sau. Đã đến lúc chúng ta cần hành động – không chỉ để bắt kịp thế giới, mà để dẫn dắt và định hình vị trí của Việt Nam trong kỷ nguyên số”, ông Dũng nói.