Kinh tế Việt Nam phải bước bằng 'hai chân': FDI và OFDI
(CLO) Sau bốn thập kỷ Đổi mới và bước sang “Kỷ nguyên vươn mình”, Việt Nam không chỉ là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) toàn cầu, mà còn đang chứng kiến một xu thế mới: OFDI – dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ chính các doanh nghiệp Việt.
Khi doanh nghiệp Việt “vươn ra biển lớn”
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt đã trở thành “người tiên phong” trên hành trình chinh phục thị trường quốc tế. Đơn cử như Viettel đã mở rộng mạng lưới viễn thông tới hơn 10 quốc gia, từ châu Á, châu Phi cho đến Mỹ Latinh, tạo dấu ấn mạnh mẽ với hàng chục triệu thuê bao.
Hay Tập đoàn TH với thương hiệu sữa TH true MILK đầu tư hàng trăm triệu USD xây dựng trang trại và nhà máy chế biến sữa tại Nga. Vinamilk đã đẩy mạnh phát triển các công ty sữa ở Mỹ, Campuchia và New Zealand, đồng thời mở rộng chuỗi sản xuất toàn cầu.

Trong khi đó, PetroVietnam và PV Gas hiện diện tại nhiều dự án dầu khí ở khu vực Đông Nam Á. OFDI không chỉ giúp mở rộng thị trường, tận dụng nguồn lực toàn cầu mà còn phản ánh sức mạnh nội tại và tư duy hội nhập chủ động của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
Báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính cho biết, tính tới cuối năm 2024, OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam đạt gần 664,8 triệu USD, tăng 57,7% so với năm trước, với 164 dự án đầu tư ra nước ngoài.
Lũy kế đến cuối 2024 cả nước có khoảng 1.825 dự án đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn 22.59 tỷ USD. Đầu tư ra nước ngoài năm 2024 của Việt Nam tập trung vào 16 ngành, nhưng tập trung nhiều vào hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ, công nghiệp chế biến chế tạo, sản xuất và phân phối điện.
Trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA), nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) nhấn mạnh: Kinh tế Việt Nam phải đi lên từ “hai chân” vừa thu hút FDI, đồng thời phải đẩy mạnh OFDI.
“Việc bước đi bằng hai chân chính là động lực phát triển vững chắc của nền kinh tế để trở thành một nền kinh tế phát triển”, TS Phan Hữu Thắng nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội để đẩy mạnh dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong giai đoạn tới.
Phân tích rõ hơn về vấn đề này, TS Phan Hữu Thắng cho biết, thực chất hai nguồn vốn này là một và chủ yếu là nguồn vốn của kinh tế tư nhân.
“Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới hiện nay, OFDI của kinh tế tư nhân, cùng với sự năng động phát triển chung của cả nền kinh tế, chắc chắn kinh tế tư nhân sẽ tìm hướng mở rộng thị trường ra bên ngoài nếu các trở ngại về thể chế, chính sách, quản lý nhà nước cũng như các yếu kém của kinh tế được chính các chủ nhân nền kinh tế này cùng Nhà nước tháo gỡ sớm, sẽ tạo ra bước nhảy vọt hiệu quả của OFDI Việt Nam trong giai đoạn tới”, ông Thắng nói.

Mặc dù lũy kế OFDI trong vài năm gần đây liên tục tăng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chủ động tìm kiếm cơ hội bên ngoài, thế nhưng nếu so với FDI, OFDI của Việt Nam vẫn rất khiêm tốn. Đồng thời, OFDI thiếu các dự án chiến lược, công nghệ cao có tác động lan tỏa.
Chủ tịch VIPFA cho hay, OFDI của Việt Nam thường tập trung trung vào khai khoáng/nông nghiệp. Thế nhưng, các ngành này dễ bị rủi ro bởi giá hàng hoá, môi trường, chính sách nước sở tại. Các ngành khai khoáng, nông nghiệp cũng thiếu đầu tư chế biến chế tạo giá trị gia tăng cao, R&D, trung tâm dịch vụ toàn cầu.
Bên cạnh đó, năng lực quản trị, tài chính, pháp lý của doanh nghiệp hạn chế: nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về năng lực tài chính, quản trị xuyên biên giới, thiếu am hiểu luật nước sở tại, do đó dễ dẫn đến rủi ro thất bại, tranh chấp, hoặc lợi nhuận thấp.
Ngoài ra, thị trường nơi đến đầu tư hạn chế, cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa phát triển, nguồn nhân lực yếu, hệ thống quản lý và chính sách còn nhiều bất cập.
Nguyên nhân là do quy mô doanh nghiệp Việt Nam, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), vốn và chuyên môn còn hạn chế, tuy nhiên lại đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ chuyên sâu, kỹ thuật cao.
Một nguyên nhân khác là do khung chính sách và hỗ trợ chưa hoàn chỉnh. Ông Thắng cho hay, mặc dù có chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, nhưng thiếu quỹ hỗ trợ, bảo hiểm rủi ro chính trị, cơ chế thúc đẩy M&A, và hỗ trợ tiếp cận thị trường pháp lý.
“Chi phí tìm hiểu thị trường, thủ tục, và rủi ro chính trị,khí hậu ở nước nhận đầu tư khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam mà phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ e dè”, ông Thắng nói.
Kinh tế Việt Nam phải đi lên từ “hai chân” vừa thu hút FDI, đồng thời phải đẩy mạnh OFDI.
TS Phan Hữu Thắng Chủ tịch Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA), nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài.
Thế giới làm được, Việt Nam sẽ làm được
Trước những cơ hội mới, vận hội mới, Chủ tịch VIPFA kiến nghị 5 giải pháp và chính sách mới trong giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn 2045.
Thứ nhất, cần có mục tiêu chiến lược ngắn - trung hạn đến năm 2030. Từ OFDI “vốn lớn – tài nguyên” sang “OFDI giá trị cao”, Việt Nam cần ưu tiên hỗ trợ các dự án công nghệ, R&D, chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm dịch vụ nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao.
Việt Nam cần khuyến khích liên minh, liên doanh, M&A ra nước ngoài để tạo “tiền đề” cho dự án chiến lược sau này. Đồng thời xem xét thiết lập quỹ hỗ trợ/bảo hiểm rủi ro OFDI.
“Nhà nước (hoặc quỹ công‑tư) cung cấp các cơ chế bảo hiểm rủi ro chính trị/tài chính, hỗ trợ trước đầu tư”, ông Thắng nói.

Thứ hai liên quan tới các giải pháp hành chính - kỹ thuật. Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý & thủ tục một cửa cho OFDI thông qua việc rút ngắn thời gian, minh bạch, có hướng dẫn M&A xuyên biên giới, ưu đãi thuế cho thu nhập từ hoạt động quốc tế hợp pháp.
Có chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tích cực triển khai mở rộng hiệp định thương mại và bảo hộ đầu tư, khuyến khích hợp tác công‑tư (PPP) và nhà đầu tư chiến lược.
Thứ ba, liên quan đến công cụ tài chính và nhân lực. Đối với Nhà nước cần đứng ra tổ chức nghiên cứu thị trường; bảo lãnh tín dụng cho dự án OFDI có phương án kinh tế rõ ràng.
Thực hiện chương trình đào tạo nhân sự quốc tế, thông qua kết nối doanh nghiệp với trường đại học, chương trình thực hành, nâng cao năng lực quản trị, pháp chế, M&A, logistics xuyên biên giới. Khuyến khích startup công nghệ mở rộng ra thị trường toàn cầu với ưu đãi thuế, R&D, hỗ trợ pháp lý.
Thứ tư, Việt Nam cần xác định tầm nhìn dài hạn đến 2045, với các mục tiêu tập trung xây dựng một số tập đoàn Việt Nam thành “nhà tích hợp/nhà đầu tư toàn cầu” ở một vài ngành then chốt (năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ thông tin, chuỗi giá trị chế tạo, logistic);
Chuyển đổi cơ cấu OFDI từ khai khoáng/nông nghiệp sang công nghệ cao, R&D, dịch vụ tài chính‑thanh toán xuyên biên giới, năng lượng tái tạo, sản xuất giá trị gia tăng.
Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện: pháp luật, quỹ, mạng lưới đại sứ quán/thương vụ, nguồn nhân lực, hệ sinh thái khởi nghiệp hợp lực để doanh nghiệp Việt Nam khi ra nước ngoài có hỗ trợ ngay từ đầu.
Thứ năm, Việt Nam cần tiến hành cụ thể việc xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư OFDI; gồm cả kỹ năng quản trị xuyên biên giới, kế toán IFRS (chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế), Luật đầu tư quốc tế và của các quốc gia đến đầu tư.
Xây bộ tiêu chí OFDI “ưu tiên” (công nghệ, R&D, chuỗi giá trị) để tập trung đầu tư OFDI; Khuyến khích liên doanh/M&A.
Đồng thời, Việt Nam cần phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu OFDI minh bạch, công khai danh sách dự án, hiệu quả, lợi nhuận, rủi ro để học hỏi và dựa vào đó ra chính sách tốt hơn.
Hy vọng với các việc cần làm nêu trên, lại được các cơ quan quản lý nhà nước về OFDI tại các địa phương với hai cấp quản lý như hiện nay, tổ chức thực hiện tốt, sẽ giúp OFDI thành công đưa con tàu Việt Nam ra biển lớn có nền kinh tế tự chủ độc lập, đuổi kịp và vượt các nền kinh tế phát triển hiện nay vì “không có việc gì khi các quốc gia khác làm được mà Việt Nam không làm được” dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đoàn kết quyết tâm phát triển của toan Đảng, toàn dân.
TS Phan Hữu Thắng nhấn mạnh.