Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Khẳng định kỷ nguyên độc lập, tự do và khát vọng vươn mình
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ôn lại chặng đường vẻ vang của dân tộc, khẳng định những giá trị trường tồn của cách mạng, đồng thời tiếp tục nuôi dưỡng khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
.png)
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ôn lại chặng đường vẻ vang của dân tộc, khẳng định những giá trị trường tồn của cách mạng, đồng thời tiếp tục nuôi dưỡng khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

PGS.TS Nguyễn Viết Thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Hữu nghị Việt Nam-Cuba, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chúng ta càng thấy rõ rằng sự kiện lịch sử trọng đại này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. “Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đã xác định đây là kỷ nguyên độc lập, tự do, và như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập, đó là kỷ nguyên huy hoàng khi dân tộc ta đánh đổ thực dân, phong kiến, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, PGS.TS Nguyễn Viết Thảo cho biết.

Theo PGS.TS Nguyễn Viết Thảo, để bảo vệ mục tiêu cao cả của kỷ nguyên độc lập, tự do, toàn quân, toàn dân ta đã trải qua những cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, kéo dài hàng chục năm. Đến mùa xuân năm 1975, với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ đây, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bắt đầu từ năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã mở ra kỷ nguyên thứ hai – kỷ nguyên đổi mới và phát triển. Gần 40 năm qua, đổi mới đã làm nên những thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, công cuộc đổi mới đem lại cho Việt Nam “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có”. Việt Nam hôm nay không chỉ là bản anh hùng ca chống thực dân, đế quốc, mà còn là một điển hình phát triển, một kinh nghiệm quý báu cho nhiều quốc gia khác.
Từ những thành tựu ấy, đất nước ta đang có đầy đủ điều kiện để bước vào kỷ nguyên thứ ba – kỷ nguyên vươn mình phát triển: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Năm nhiệm vụ lớn của công tác đối ngoại trong kỷ nguyên mới
- Tiên phong tạo lập môi trường quốc tế hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
- Tiên phong bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
- Tiên phong xây dựng hệ thống quan hệ quốc tế đa phương hóa, đa dạng hóa, có chiều sâu, chất lượng.
- Tiên phong thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tiên phong nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Đây là những sứ mệnh cao cả mà công tác đối ngoại, cùng với quốc phòng và an ninh, sẽ đảm nhiệm trong thời gian tới.
Khi nói về Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta không thể không nhắc đến lĩnh vực đối ngoại. Đây là sự kiện mở ra nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh – một trường phái ngoại giao đặc sắc, với tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ngoại giao Việt Nam luôn gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nội lực và ngoại lực để làm nên những chiến thắng lịch sử, cũng như những thành tựu to lớn trong đổi mới và hội nhập quốc tế ngày nay.
Như vậy, có thể khẳng định: từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, dân tộc ta đã đi qua hai kỷ nguyên trọng đại – kỷ nguyên độc lập, tự do và kỷ nguyên đổi mới, phát triển – để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu hóa. Những kỷ nguyên này nối tiếp, bồi đắp cho nhau, trở thành nền tảng vững chắc để đất nước tiếp tục đi lên.

Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương - GS.TS Tạ Ngọc Tấn cho biết, nói đến những bài học của Cách mạng Tháng Tám có thể rút ra như sau: Bài học thứ nhất là việc Đảng đã rất sáng suốt, không để lỡ thời cơ, đề ra được một đường lối, chính sách đúng đắn nhất của dân tộc. Đó là chủ trương phát động toàn dân tộc đứng lên, mang lại cho nhân dân người cày có ruộng. Mục tiêu của cách mạng xuất phát từ quyền lợi của người dân, của dân tộc, vì thế đường lối, chính sách ấy được đồng bào hưởng ứng mạnh mẽ.
Bài học thứ hai là dựa vào sức mạnh của nhân dân, tập hợp được một lực lượng rộng rãi. Chính nhờ sức mạnh ấy mà cách mạng đã có một lực lượng to lớn, đủ để tổ chức và thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa. Có thể nói, đây là một cuộc khởi nghĩa mẫu mực trên thế giới: diễn ra cực kỳ nhanh chóng, đúng thời cơ, thuận lợi, đặc biệt là một cuộc cách mạng giành chính quyền mà không đổ máu.

Bài học thứ ba là sự chỉ đạo cách mạng rất sáng tạo, năng động và quyết đoán. Ngay khi Nhật vào nước ta, đất nước chịu hai tầng áp bức, Đảng đã nhận định rõ mâu thuẫn dân tộc không thể dung hòa. Trong quá trình tạm chiếm, khi nhận thấy thời cơ sắp tới, nhất là khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thì thời cơ thật sự xuất hiện. Lúc ấy, Trung ương đã kịp thời ra Chỉ thị, từ ngày 13/8/1945 ban hành Quân lệnh số 1, và ngay khi Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, lực lượng cách mạng đã tiến về, chuẩn bị giải pháp cụ thể. Đó là bài học quan trọng về sự chỉ đạo năng động, quyết đoán.
Về sự trường tồn của Cách mạng Tháng Tám, có thể khẳng định trước hết ở ý nghĩa lịch sử: đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đưa đất nước thoát khỏi sự thống trị của phát xít Nhật, thoát khỏi hơn 80 năm nô lệ dưới ách thực dân Pháp, đồng thời xóa bỏ chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm. Ý nghĩa tiếp theo là những bài học vô cùng quan trọng mà Cách mạng Tháng Tám để lại, trở thành động lực, nền tảng, cơ sở để Đảng vận dụng trong kỷ nguyên mới, xây dựng những chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của cách mạng trong thời đại mới.

PGS.TS Bùi Đình Phong, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận định: Với đường lối đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), chúng ta đã mở ra sự thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng đã mang đến sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Minh. Hai nhân tố quan trọng nhất, không chỉ trong Cách mạng Tháng Tám mà còn có ý nghĩa cho đến ngày nay, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai nhân tố ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ và cả sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay trong thời kỳ đổi mới.

Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ trong thời điểm ra Quân lệnh số 1, sau đó là lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một vấn đề quan trọng là việc áp dụng Quân lệnh số 1 tại các địa phương đã có tính chất rất linh hoạt. Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy: Đảng lãnh đạo theo một hướng chung nhất, nhưng tùy theo mỗi địa phương, mỗi hoàn cảnh lại có sự vận dụng cụ thể. Ví dụ thời kỳ 1930 – 1931, ở Nghệ Tĩnh, nhân dân với tinh thần cách mạng sôi nổi, trong bối cảnh chính quyền thực dân rệu rã, đã vùng dậy và thành lập chính quyền Xô viết. Dưới ánh sáng chỉ đạo chung của Đảng, nhân dân từng địa phương có thể sáng tạo, chủ động giành chính quyền. Sau Quân lệnh số 1, một số địa phương, trong đó có Nghệ Tĩnh, với điều kiện cụ thể và sức mạnh của cách mạng, đã sớm giành chính quyền trước. Đây là sự tất yếu, phản ánh tính sáng tạo của Đảng và nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Giá trị thời đại và tinh thần độc lập từ cột mốc lịch sử này đã mở ra trang mới cho dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc trở thành nền tảng, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên kháng chiến, kiến quốc và xây dựng đất nước. Đến nay, sau 80 năm, trải qua các cuộc kháng chiến và 40 năm đổi mới, tinh thần độc lập dân tộc vẫn còn mãi, là nguồn năng lượng, cảm hứng và sức sống để đất nước tiến bước vào giai đoạn phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh bước cùng thời đại.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Trước đó đã có “Nam quốc sơn hà” và “Bình Ngô đại cáo”. Tuy nhiên, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là sự kế thừa, phát triển và nâng cao giá trị truyền thống, khẳng định sức sống trường tồn của dân tộc, khẳng định nền độc lập thực sự, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.




Cách mạng Tháng Tám thành công nhờ lực lượng toàn dân, từ thành thị đến nông thôn, lực lượng vũ trang và chính trị. Đặc biệt, thành công tại Hà Nội ngày 19/8 có vai trò rất quan trọng, vì đây là đầu não của phát xít Nhật. Thắng lợi ở Hà Nội kéo theo thắng lợi ở Huế, rồi Sài Gòn. Chỉ trong vòng hai tuần, nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc.
Tinh thần độc lập xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử. Hiện nay, sau 40 năm đổi mới, đất nước đã có thế và lực chưa từng có. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, chưa bao giờ Việt Nam có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hôm nay. Thành quả ấy bắt nguồn từ truyền thống dân tộc hàng nghìn năm, đặc biệt từ thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và sự khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ nền tảng độc lập, tự do, nhân dân ta đã vượt qua kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, 40 năm đổi mới và nay toàn dân đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục thực hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Thực hiện: Hà Đương
Ảnh: Hà Nội mới, Nhân Dân, tư liệu