Lần đầu tiên Việt Nam thực hiện kỹ thuật điều biến dây thần kinh phế vị điều trị động kinh kháng thuốc
(CLO) Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM (Thành phố Hồ Chí Minh) vừa thực hiện thành công kỹ thuật điều biến dây thần kinh phế vị (VNS) để điều trị động kinh kháng thuốc, đánh dấu bước tiến mới của y học thần kinh Việt Nam trong lĩnh vực điều trị can thiệp ít xâm lấn.
Theo TS.BS Trương Thanh Tình, Trưởng khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, toàn thế giới hiện có khoảng 50 triệu người mắc bệnh động kinh. Tại Việt Nam, tỷ lệ này chiếm từ 0,5 đến 1% dân số, tương đương 500.000 đến 1 triệu người.
“Đáng chú ý, cứ 10 người bị động kinh thì có tới 3 người rơi vào tình trạng động kinh kháng thuốc, tức là các cơn động kinh vẫn tái phát dù đã dùng ít nhất ba loại thuốc khác nhau”, bác sĩ Tình cho biết.
Động kinh kháng thuốc khiến người bệnh phải đối mặt với nhiều nguy cơ như chấn thương, đuối nước, rối loạn tâm thần, suy giảm trí nhớ, chậm phát triển (ở trẻ nhỏ), thậm chí đột tử.

Hiện nay, điều trị động kinh kháng thuốc có ba phương thức chính, từ truyền thống đến hiện đại.
Phương pháp cổ điển nhất là phẫu thuật cắt bỏ vùng sinh động kinh, tức là loại bỏ phần não gây ra các cơn co giật. Dù chi phí thấp (khoảng vài chục triệu đồng/ca), phương pháp này tiềm ẩn nhiều biến chứng do phẫu thuật hở.
Giải pháp thứ hai hiện đại hơn là kích thích não sâu (DBS), trong đó các điện cực được cấy vào sâu trong não qua những lỗ nhỏ trên hộp sọ, nối với máy phát xung đặt ở ngực. DBS giúp điều chỉnh tín hiệu bất thường của não, nhưng vẫn được xếp vào nhóm can thiệp xâm lấn.
Trong khi đó, kỹ thuật điều biến dây thần kinh phế vị (VNS) được xem là bước tiến mới, ít xâm lấn nhất. Phương pháp này không tác động trực tiếp đến não, mà sử dụng hai đường mổ nhỏ ở vùng cổ để “bó” dây thần kinh phế vị (dây số 10) bằng các lõi điện cực. Những điện cực này được nối với máy phát xung cỡ đồng xu đặt dưới da vùng ngực trái, giúp điều chỉnh hoạt động thần kinh và giảm dần tần suất các cơn động kinh.
“Điều đặc biệt của kỹ thuật này là chúng ta giữ nguyên cấu trúc não, không cắt bỏ tổn thương và không đặt thiết bị vào não. Đây thực sự là can thiệp tối thiểu đúng nghĩa, mở ra cơ hội mới cho người bệnh”, TS.BS Trương Thanh Tình nhấn mạnh.
Theo thống kê lâm sàng quốc tế, trong ba tháng đầu sau cấy VNS, bệnh nhân có thể giảm khoảng 25% số cơn động kinh. Sau sáu tháng, tỉ lệ giảm đạt 40–50%, và sau một năm, có thể đạt 60%.
“Ghi nhận tại các quốc gia đã áp dụng, sau hai năm điều trị, tần suất cơn có thể giảm tối đa 66%, giúp người bệnh gần như trở lại cuộc sống bình thường”, bác sĩ Tình cho biết thêm.
Tại Việt Nam, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM là đơn vị đầu tiên thực hiện kỹ thuật này, sau ba năm chuẩn bị và đặt hàng thiết bị chuyên dụng từ Mỹ – nơi hiện đang độc quyền sản xuất bộ cấy VNS.
Chi phí cho mỗi ca can thiệp vào khoảng 700 triệu đồng. Hiện tại, chỉ có một đơn vị độc quyền phân phối thiết bị tại Việt Nam.
Tại hội nghị, các chuyên gia Ngoại thần kinh của bệnh viện đã thực hiện thị phạm ca can thiệp VNS đầu tiên tại Việt Nam.
Bệnh nhân là nam, 17 tuổi, mắc động kinh từ năm 2 tuổi rưỡi, từng trải qua phẫu thuật cắt bỏ vùng sinh động kinh hai năm trước.
Sau phẫu thuật, tình trạng bệnh tạm ổn định, nhưng sáu tháng gần đây, các cơn động kinh tái phát 5–8 lần mỗi ngày, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và học tập.
“Trường hợp này đã trải qua phẫu thuật truyền thống mà không đạt hiệu quả mong muốn. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn điều biến dây thần kinh phế vị để ‘hóa giải’ tình trạng động kinh kháng thuốc”, TS.BS Tình cho biết.
Theo giới chuyên môn, thành công của ca phẫu thuật VNS đầu tiên mở ra hy vọng lớn cho hàng trăm nghìn bệnh nhân động kinh kháng thuốc tại Việt Nam, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên, nhóm dễ bị tổn thương nhất.
“Việc đưa kỹ thuật điều biến dây thần kinh phế vị vào ứng dụng đánh dấu bước tiến quan trọng của y học Việt Nam trong điều trị bệnh lý thần kinh. Đây không chỉ là thành tựu của riêng một bệnh viện mà là cột mốc của ngành phẫu thuật thần kinh trong nước”, TS.BS Trương Thanh Tình khẳng định.