Xã hội

Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi): Khi kỹ sư, giám đốc doanh nghiệp trở thành giảng viên cơ hữu

Văn Hiền 11/08/2025 15:43

(CLO) Trong mô hình đào tạo kép hiện nay, kỹ sư hay giám đốc từ doanh nghiệp hoàn toàn có thể đảm nhận giảng dạy nếu đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn và sư phạm.

Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) lần đầu tiên đưa vào khái niệm “giảng viên đồng cơ hữu”, những người không thuộc biên chế nhà trường nhưng đủ chuẩn tham gia giảng dạy các ngành nghề đặc thù.

Phóng viên Nhà Báo & Công Luận đã có cuộc trao đổi với ông Trần Thanh Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghề Công nghiệp Hà Nội để phân tích sâu về tính khả thi và ý nghĩa của cơ chế mới được quy định tại dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).

Ông Trần Thanh Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghề Công nghiệp Hà Nội.

Phóng viên: Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) lần này lần đầu tiên bổ sung khái niệm ‘giảng viên đồng cơ hữu’, những người ngoài biên chế nhưng đáp ứng chuẩn và có thể tham gia giảng dạy các ngành, nghề đặc thù.

Ở góc độ người trực tiếp quản lý đội ngũ giảng viên, ông đánh giá ra sao về tính khả thi của quy định mới này trong thực tế đào tạo nghề?

Ông Trần Thanh Bình: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 19 của Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp “Giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu là người đã được tuyển dụng ở một cơ quan, đơn vị không phải Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, được cơ sở giáo dục nghề nghiệp bổ nhiệm để đảm nhiệm chức danh giảng dạy các ngành, nghề chuyên môn đặc thù nếu đáp ứng chuẩn nghề nghiệp”.

Vậy khái niệm “Giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu” là một khái niệm mới, được hiểu là những người có chuyên môn sâu, kinh nghiệm thực tế từ các doanh nghiệp, tổ chức bên ngoài, được nhà trường mời về giảng dạy, hướng dẫn, và có thể được tính vào đội ngũ nhà giáo cơ hữu để xác định chỉ tiêu tuyển sinh.

Thực tế hiện nay thì ngoài đội ngũ nhà giáo cơ hữu, đội ngũ nhà giáo thỉnh giảng thì các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn thực hiện mời các nhà quản lý, chuyên gia, kỹ sư đến từ các doanh nghiệp, tổ chức tham gia các hoạt động về đào tạo với nhà trường như xây dựng, biên soạn, thẩm định chương trình, giáo trình; nghiên cứu khoa học; thiết kế, chế tạo thiết bị đào tạo; kiểm tra, đánh giá người học; tập huấn, bồi dưỡng các chuyên đề mới, kỹ năng mới cho giảng viên và sinh viên…

Do vậy quy định này trong Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp là hoàn toàn khả thi và có thể thực hiện được ngay khi Luật Giáo dục nghề nghiệp mới có hiệu lực.

Trường Cao đẳng Nghề Công nghiệp Hà Nội thăm và làm việc tại công ty MESDA GRUOP - doanh nghiệp về sản xuất và cung cấp máy công nghiệp mở ra cơ hội cho giảng viên và sinh viên của nhà trường trong hoạt động dạy và học.

Phóng viên: Thực tế cho thấy nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội đã có kinh nghiệm mời chuyên gia, kỹ sư từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy. Ông có thể chia sẻ về kết quả này mà nhà trường đã đạt được trong những năm qua?

Ông Trần Thanh Bình: Theo quy định hiện hành thì đối với đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ trung cấp thời lượng dành cho thực hành, thực tập, thí nghiệm chiếm từ 45% - 75% chương trình. Tại Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội với mục đích đẩy mạnh việc phát triển kỹ năng nghề cho sinh viên, chúng tôi quy định cứng thời lượng thực hành, thực tập, thí nghiệm chiếm 70% - 75% trong chương trình đào tạo và thời gian người học học tập tại doanh nghiệp chiếm từ 25% - 30% thời lượng chương trình đào tạo.

Do vậy việc đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo là thế mạnh của nhà trường trong suốt thời gian vừa qua, ngoài những kết quả và lợi ích đối với sinh viên và nhà trường thì cũng đã mang lại kết qủa và lợi ích thực tế đối với doanh nghiệp, cụ thể như: Chủ động nguồn nhân lực; Đảm bảo chất lượng lao động; Tăng cường gắn kết với cộng đồng.

Phóng viên: Theo ông, điểm khác biệt giữa cơ chế “cộng tác viên” hiện nay và “giảng viên đồng cơ hữu” theo dự thảo luật là gì? Liệu khái niệm mới này có giúp hợp thức hóa và mở rộng cơ chế phối hợp giữa trường và doanh nghiệp?

Ông Trần Thanh Bình: “Cộng tác viên” trong nhà trường được hiểu là quan hệ hợp đồng dịch vụ, hợp đồng cộng tác mang tính tự do, thời vụ, theo nhiệm vụ cụ thể; không phải biên chế nhà trường, không được tính vào đội ngũ giảng viên chính thức.

“Giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu” có thể được hiểu bản chất theo dự thảo Luật: là người đã được tuyển dụng ở một cơ quan, đơn vị khác (không phải nhà trường) nhưng được cơ sở giáo dục nghề nghiệp bổ nhiệm để đảm nhiệm chức danh giảng dạy như giảng viên cơ hữu, với thời hạn từ 1 năm trở lên (vị trí có tính thường xuyên, ít nhất là trung hạn). Đây là loại vị trí chính thức hơn so với “thỉnh giảng” hay “cộng tác viên”.

529828855_1355271539935047_9074317748636668107_n.jpg
Việc đào tạo liên ngành, tích hợp nhiều lĩnh vực là xu hướng tất yếu; giảng viên cũng phải được tạo điều kiện để chuyển đổi nghề giảng dạy phù hợp với thực tế.

Phóng viên: Việc bổ nhiệm giảng viên đồng cơ hữu, xác định trách nhiệm, chuẩn nghề nghiệp và tỷ lệ quy đổi khi mở ngành hiện vẫn còn bỏ ngỏ trong dự thảo?

Theo ông, những tiêu chí và ràng buộc nào là cần thiết để tránh tình trạng hình thức hóa, bảo đảm chất lượng đào tạo nhưng không làm mất đi tính linh hoạt vốn là ưu thế của loại hình này?

Ông Trần Thanh Bình:Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận “giảng viên đồng cơ hữu” là một bước tiến trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với thực tiễn sản xuất – kinh doanh. Khác với cơ chế “cộng tác viên” hay “thỉnh giảng” thuần túy, mô hình này hướng tới việc gắn bó lâu dài hơn, trao quyền và trách nhiệm rõ ràng hơn cho các chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy. Tuy nhiên, nếu không có khung tiêu chí và ràng buộc cụ thể, nguy cơ hình thức hóa là hiện hữu.

Vì vậy, theo tôi, cần thiết lập một số nguyên tắc then chốt:

1) Tiêu chuẩn nghề nghiệp rõ ràng: Giảng viên đồng cơ hữu phải đáp ứng chuẩn nhà giáo giáo dục nghề nghiệp về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề và năng lực sư phạm. Trường hợp chưa đạt chuẩn sư phạm cần hoàn thiện trong thời hạn quy định.

2) Cam kết khối lượng và thời hạn: Bổ nhiệm phải kèm cam kết số giờ giảng dạy hoặc nhiệm vụ chuyên môn tối thiểu mỗi năm; thời hạn bổ nhiệm ít nhất 1 năm để bảo đảm sự gắn kết.

3) Tỷ lệ quy đổi minh bạch: Quy định giới hạn tỷ lệ giảng viên đồng cơ hữu được tính vào tiêu chí mở ngành/nghề, đồng thời áp dụng cơ chế quy đổi theo khối lượng thực tế.

4) Ràng buộc trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp: Xác định rõ vai trò trong thiết kế chương trình, hướng dẫn thực hành, đánh giá kết quả học tập; đồng thời phòng tránh xung đột lợi ích, bảo mật thông tin và đảm bảo công bằng với người học.

Để thực hiện quyền tự chủ một cách hiệu quả, theo ông BÌnh cần xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ.

Phóng viên: Đơn vị Giáo dục nghề nghiệp cần xây dựng quy trình bổ nhiệm và quản lý đội ngũ này ra sao để đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả?

Ông Trần Thanh Bình: Về quy trình quản lý, mỗi cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần xây dựng một cơ chế ba bước:

Bước 1- Tuyển chọn minh bạch: Công khai nhu cầu, tiêu chuẩn; sàng lọc hồ sơ và đánh giá năng lực qua phỏng vấn hoặc giờ giảng thử.

Bước 2 - Bổ nhiệm bằng văn bản: Ký hợp đồng hoặc quyết định kèm các điều khoản về khối lượng, quyền lợi và chế tài; Nếu giảng viên đang làm việc tại doanh nghiệp khác, cần thỏa thuận ba bên để thống nhất thời gian, trách nhiệm và quyền lợi.

Bước 3 - Giám sát và đánh giá định kỳ: Báo cáo khối lượng thực hiện, phản hồi của người học và doanh nghiệp; Kết quả này là cơ sở gia hạn hoặc chấm dứt bổ nhiệm.

Nếu làm tốt, cơ chế “giảng viên đồng cơ hữu” sẽ vừa giữ được tính linh hoạt trong huy động trí tuệ và kinh nghiệm từ doanh nghiệp, cơ quan chuyên môn, hoặc tổ chức, vừa bảo đảm chuẩn mực chuyên môn và chất lượng đào tạo – điều mà thị trường lao động hiện nay đang đòi hỏi khắt khe.

Phóng viên: Để cơ chế giảng viên đồng cơ hữu phát huy hiệu quả, theo ông, những điều kiện pháp lý, hướng dẫn kỹ thuật hoặc hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước cần được ban hành hoặc hoàn thiện thêm ở những khía cạnh nào?

Ông Trần Thanh Bình: Theo tôi, để mô hình giảng viên đồng cơ hữu không chỉ dừng lại ở ý tưởng hoặc trên văn bản mà trở thành một công cụ thực tiễn nâng cao chất lượng đào tạo, Nhà nước cần hành động trên ít nhất bốn phương diện:

Thứ nhất, khung pháp lý rõ ràng, thống nhất. Bởi, Luật hoặc nghị định cần định nghĩa cụ thể giảng viên đồng cơ hữu, phân biệt với cộng tác viên, giảng viên thỉnh giảng.

Quy định điều kiện bổ nhiệm: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kinh nghiệm thực tế, thời hạn và khối lượng công việc tối thiểu.

Gắn chặt với các điều khoản của Bộ luật Lao động và Luật Giáo dục nghề nghiệp để tránh “vùng xám” về hợp đồng, bảo hiểm, quyền lợi; quy định minh bạch mối quan hệ giữa nhà trường với doanh nghiệp (tránh xung đột lợi ích, đảm bảo công bằng tuyển sinh và đánh giá người học).

528142591_1349792793816255_618637849437788682_n.jpg
Sau khi hệ thống chính trị và giáo dục được tái cấu trúc, đòi hỏi Luật Giáo dục nghề nghiệp cần được điều chỉnh, cập nhật để phù hợp với xu hướng phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh khoa học - công nghệ thay đổi nhanh chóng.

Thứ hai, cần hướng dẫn kỹ thuật chi tiết. Ban hành thông tư hướng dẫn về tỷ lệ quy đổi giảng viên đồng cơ hữu khi tính nhân sự mở ngành/nghề và phương pháp quy đổi dựa trên giờ giảng hoặc tín chỉ thực tế. Quy định quy trình tuyển chọn – bổ nhiệm – đánh giá thống nhất để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp áp dụng, bao gồm cả mẫu hợp đồng, quyết định bổ nhiệm và báo cáo đánh giá.

Thứ ba, cơ chế kiểm định và giám sát yêu cầu minh chứng hoạt động thực tế của giảng viên đồng cơ hữu khi kiểm định chất lượng hoặc mở ngành/nghề. Thiết lập chế độ báo cáo định kỳ về số lượng, khối lượng giảng dạy, kết quả đánh giá từ phía sinh viên và doanh nghiệp.

Thứ tư, hỗ trợ và khuyến khích tổ chức các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dành riêng cho chuyên gia doanh nghiệp muốn tham gia giảng dạy. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cử cán bộ kỹ thuật, quản lý giỏi làm giảng viên đồng cơ hữu, ví dụ ưu đãi thuế, ghi nhận trách nhiệm xã hội.

Nếu 4 nhóm giải pháp này được triển khai đồng bộ, cơ chế giảng viên đồng cơ hữu sẽ vừa đảm bảo tính minh bạch, chuẩn mực, vừa duy trì linh hoạt để thu hút nguồn lực chất lượng cao từ doanh nghiệp – yếu tố then chốt nâng tầm giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi công nghệ nhanh chóng.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi): Khi kỹ sư, giám đốc doanh nghiệp trở thành giảng viên cơ hữu
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO